

Tôi mới nhận được một giấy mời tham dự Lễ Tưởng niệm cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào ngày 02/11. Tôi không một chút suy nghĩ và đã nhận lời. Lần đầu tiên nhận một giấy mời như thế kể từ khi ông chết. Cám ơn ban tổ chức.
Tôi nhìn thấy tên người tổ chức: ông Lê Châu Lộc. Người đã có thời hãnh diện vì đã được sống bên cạnh vị Tổng Thống ấy. Từ Lê Châu Lộc, tôi liên tưởng đến những người từng có cơ hội gần gũi với Tổng Thống Ngô Đình Diệm như Đỗ Thọ, Nguyễn Hữu Duệ, Cao Xuân Vỹ, Tôn Thất Thiện, Cụ Quách Tòng Đức, Huỳnh Văn Lang, Trần Kim Tuyến Lâm Lễ Trinh, cụ Đoàn Thêm, Võ Văn Hải, Nguyễn Thành Cung, Nguyễn Cửu Đắc, Nguyễn Văn Minh và v.v…
Ít ai có lời phỉ báng, nặng nhẹ, nếu không nói là một lòng, một dạ. Hình như ít có vị lãnh đạo nào, dù đạo hay đời mà khi chết đi để lại thương nhớ và niềm kính trọng nơi những kẻ dưới quyền đến như ông? Hồ Chí Minh chăng? Không. Nào ai khác không có. Nhớ những người này, những kẻ một lòng, một dạ với ông thì đồng thời tôi cũng muốn không nhớ tới Đỗ Mậu, một số tướng lãnh hay Thích Trí Quang và Cabot Lodge. Nói chi đến thứ viết như Nguyễn Đắc Xuân, viết bẩn, bôi bẩn.

Khu biệt thự Trần Lệ Xuân (2 Yết Kiêu, Đà Lạt) lộng lẫy rộng trên 13 ngàn mét vuông
vừa được nâng cấp trở thành Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV. Nơi lưu giữ hơn 30 ngàn mộc bản triều Nguyễn.
Tôi sẽ đến đó với một tấm lòng thanh thản.
Bởi vì tôi đi đến đó không phải để vinh danh một vị tổng thống của nền đệ nhất cộng hoà. Đến đó không phải để tôn sùng, không phải để thần thánh hóa như người ta mỉa mai. Đến đó không phải vì ngu muội.vì thiếu hiểu biết lịch sử. Như người ta chửi. Cũng chẳng một chút mưu cầu gì. Bất cứ mưu cầu gì. Và có thể, tất cả những người đến đó, như tôi, đều chẳng có mưu mô, mưu cầu nào cả. Mưu cầu dựng lại đảng Cần lao nhân vị? Buồn cười. Đừng ai gán ghép gì cả. Có người vui mừng vì những cái chết đó. Có người buồn, thương tiếc. Người vui thì được, tại sao lại khó chịu khi người khác không vui, khi người khác buồn? Hãy cứ để cho người vui được vui và người buồn được phép buồn.
Tôi đến với một chút lòng. Chỉ có thế. Đến vì nghĩ rằng những năm tháng ấy, mặc dù chẳng phải là một xã hội toàn hảo. Mặc dù xã hội ấy chập chững khập khễnh giữa dân chủ, phong kiến, tự do và độc đoán. Tôi tránh chữ độc tài bởi vì nó nhiều mức độ quá. Và tôi vẫn tự hào với mình, với bạn bè mình, đó là những năm tháng đẹp nhất quãng đời tuổi trẻ của tôi, của chúng tôi. Tôi đã hỏi các bạn bè tôi, ít ai nói khác.
Hỡi những ai, những loài chim ri, chim sẻ đã từng là Chu Văn An, Petrus Ký, Gia Long, Trưng Vương. Nói lên đi, đã có lần nào các anh bị tù, bị bịt mồm, bịt miệng một cách bất công, bị đàn áp một cách vô lý… Và các anh, các chị đã có lúc nào cảm thấy bị ngộp thở, bị đè nén trong thời gian đó vì lý do tôn giáo? Do ai và người nào, bày tôi nào mà chúng ta bị đối xử như thế? Hãy tìm cho tôi một thời gian nào của mảnh đất miền Nam trong 20 năm và nay nửa thế kỷ đã qua những ngày tháng tốt đẹp hơn những ngày tháng ấy?
Tôi nhắc lại nơi đây một nhận xét của Võ Phiến về giai đoạn 1954-1963 như sau:
“Trong khung cảnh thái bình, nước nhà vừa có chủ quyền …, chính phủ đang được tín nhiệm, trong không khí vui vẻ xây dựng một miền đất tự do, văn học nghệ thuật đã phát triển nhanh chóng mạnh mẽ. Tình hình văn học trong giai đoạn mở đầu miền Nam phản ánh cái phấn khởi, tin tưởng, tích cực….Sang giai đoạn sau cả văn nhân lẫn văn chương đều hóa ra phong trần…
(Trích Văn học miền Nam tổng quan, Võ Phiến, trang 207)
Trước 1954 và sau 1963, chúng ta đã sống thế nào? Trước 1954, nhiều nỗi bấp bênh. Tương lai vô định. Sau 1963, tình thế rối beng, tuổi trẻ chán ngán.
Trong khi thời gian từ 1954, miền Nam như một miền đất hứa cho nhiều người. Chúng ta đã đến đó và góp bàn tay, góp trí óc chúng ta xây dựng mảnh đất miền Nam ấy. Hơn thế nữa, chúng ta đã góp xương máu để giữ nó, mặc dù bây giờ chúng ta đã mất. Mất tất cả? Dù thế, chúng ta đã để lại một di sản văn hóa, tinh thần tự do và một thể chế hành chánh tương đối quy mô và hữu hiệu.
Và chỉ khi thật sự mất miền Nam, chỉ khi chúng ta không còn gì… chúng ta mới có dịp so sánh và nhìn lại. Chúng ta mới thực sự hiểu và đánh giá đúng mức cái gia tài văn học, văn hoá, giáo dục của miền Nam. Nhiều khi, chúng ta đã có lúc đòi cái nọ, cái kia mà thực sự cái chúng ta đòi đã nằm sẵn trong túi áo?
Nghĩ lại thời đó, chúng ta vẫn thong dong tuổi trẻ? Chúng ta đã được đào tạo đến nơi đến chốn? Trường y, trường dược, trường kỹ sư Phú Thọ, trường Quốc Gia Hành Chánh với các đại học Sài Gòn, Đà Lạt, Huế.
Chúng ta từ đâu mà lớn lên và trở thành những chuyên viên hàng đầu của miền Nam Việt Nam? Hãy cố nhớ lại xem. Hãy dùng tất cả cái tấm lòng để nhớ đến. Nơi ấy vẫn là một niềm Nam đáng sống với những ngày tháng tuổi trẻ được lớn lên và trưởng thành. Theo cụ Đoàn Thêm, dự án trung tâm Phú Thọ tưởng không thành vì thiếu giáo sư. Ông Diệm bảo:
“Có nhiều học nhiều, có ít học ít, đợi đến bao giờ và cứ cho phép mở.
Viện Đại học Đàlạt được thành lập dễ dàng với sự nâng đỡ đặc biệt của ông.
Ông trợ cấp nhiều cho Đại học Huế, tặng tiền dịch sách để tiến tới một cơ quan dịch thuật và khuyến khích lập một viện Hán học.
Ông hoan nghênh sự cố gắng chấn hưng Nho giáo của Hội Khổng Học và dặn Bộ giáo dục tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm Khổng tử.
Như sự trưởng thành của quân đội, từ những tiểu đoàn bộ binh hay khinh binh thời Bảo Đại tới một lực lượng hùng hậu với đủ các quân chủng và binh chủng, là kết quả nỗ lực của mọi cấp chuyên trách Việt Nam với sự giúp đỡ của các cố vấn Hoa Kỳ”
Nay thì đã mấy lần từ ngày 01/11/1963? Hơn 40 năm rồi. Có điều gì cần phải nói nữa không? Có nhiều điều chúng ta không nên nhớ đến nữa. Forgive and forget. Có nhiều điều nên quên để di dưỡng tuổi già, để nhìn về thế hệ con cháu chúng ta.
Độc giả nghĩ rằng tôi sẽ viết về ông Diệm. Thưa không. Viết về ông, nhiều người đã sống bên cạnh ông viết đủ và họ có đủ tư cách để viết về ông hơn tôi gấp bội.
Cho nên, bài này tôi sẽ viết về vợ chồng ông Nhu, bị hiểu lầm và bị ghét nhất là bà Ngô Đình Nhu. Nhiều người không ưa bà, ghét là đằng khác, khinh nữa. Nhiều người bênh ông Diệm, thương mến ông, nhưng vẫn dè dặt khi nói về ông Nhu, bà Nhu. Tôi biết rõ. Vì chính tôi cũng chẳng thể nào quên được câu nói phạm thượng và xấc xược của bà khi Hoà thượng Quảng Đức tự thiêu.
Nhưng đã trót quý mến ai rồi thì khó mà nghĩ khác được. Trước đây, tôi đã trót quý mến Nam Phương Hoàng Hậu.Và niềm kính trọng vẫn còn đó. Nay thì đến lượt ông bà Nhu cũng vậy thôi.
Nhớ lại, khi ấy, tôi còn rất trẻ. Tôi đã đôi lần theo anh cả tôi “đi học” một người là ông Ngô Đình Nhu. Không biết bằng cách nào, do ai nói mà tôi vẫn nhớ đinh ninh đó là những lớp học về xã hội. Sau này, đọc sách vở thì tôi hiểu đó là những khóa huấn luyện cho thanh niên hồi đó.
Đầu óc làm chính trị, nhìn xa nên nhóm ông Nhu đã mở ra các lớp huấn luyện này để chuẩn bị khi thời cơ đến. Thành phần những người theo học, căn cứ vào anh cả tôi thì họ phải có trình độ tương đương tú tài hoặc hơn thế nữa. Chắc phần lớn là người theo đạo Thiên Chúa giáo. Các buổi học đều diễn ra vào buổi chiều thứ năm, tại 40 phố Nhà Chung Hà Nội. Tại sao tôi lại nhớ là chiều thứ năm? Bởi vì tôi theo học tại trường dòng Chúa Cứu thế nên ngày thứ năm là ngày “sortie”, chúng tôi được nghỉ đi chơi hoặc về thăm gia đình. Tôi về thăm chỗ anh tôi nên bắt buộc phải đi theo anh tôi “theo học” lớp Xã hội. Có lẽ, tôi là học viên trẻ tuổi nhất ngồi hàng ghế cuối. Phòng học chỉ có một cửa lớn ra vào nên mọi người phải đi qua cửa này để vào phòng học.
Trong những dịp này, tôi được nhìn thấy ông Ngô Đình Nhu. Dưới mắt một đứa bé con thì anh tôi là người tài giỏi hơn người. Thật vậy, vào năm 1953, anh tôi đã thi xong Phần 1, tiến sĩ triết học ở Bỉ và 1955 về nước tình nguyện ra miền Bắc phục vụ. Vậy mà ông này, cái ông dáng người cao gầy, da nám xám, mái tóc rậm đen lại còn là thầy dạy anh tôi. Ông phải giỏi biết chừng nào. Nhìn ông mà trong lòng chỉ biết nể phục.
Ông Nhu luôn luôn mặc loại áo bốn túi bỏ ra ngoài. Áo bốn túi mầu nâu hồng nhạt.
Ăn mặc khá dản dị. Cười nhếch mép và nhẹ nhàng khi đi qua những người đứng trước cửa. Ít nói và điềm đạm.
Mặc dù chỉ là ký ức của một đứa trẻ con, tôi nghĩ rằng nay nhắc lại có thể giúp thêm sử liệu về những hoạt động của ông Nhu khi còn ở Hà Nội. Việc ông lấy bà Nhu cũng đã gây một dư luận khá ồn ào lúc bấy giờ ở Hà Nội. Vì một lẽ dản dị là cả hai ông bà đều thuộc những gia đình danh gia vọng tộc.
Nhưng khoảng cách tuổi khá lớn giữa hai ông bà cũng là cớ sự cho những lời đồn thổi sau này kể từ sau 1963.
Đối với tôi, sau 1963, cái gì cũng trở thành đầu đề để đàm tiếu gia đình ông Nhu. Có cần nhắc lại những điều viết bất xứng về bà Nhu của những người như Hoàng Trọng Miên, Nguyễn Đắc Xuân không?
Xin được nhắc lại một lần cuối. Trong bài ký: “Theo Đoàn Sinh viên Huế, tham quan con đường ‘gặt bão’ của anh em Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn tháng 11–63”.
http://www.giaodiem.com/doithoaiIII/ndx_evilroute.htm

Ông Xuân đã viết với lối viết quen thuộc, nửa hư, nửa thực như sau:
Suốt tuần qua báo chí Sài Gòn đăng nhiều phóng sự điều tra về những bí mật trong dinh Gia Long, đặc biệt là những hình ảnh sex mà họ gán cho là của bà Trần Thị Lệ Xuân – vợ cố vấn Ngô Đình Nhu – người tự mệnh danh là đệ nhất phu nhân VNCH. Do đó khi được vào tham quan, chúng tôi đến ngay phòng ngủ của bà Lệ Xuân phía gần đường Pasteur. Cái phòng này bị dân chúng phá tanh banh. Các sĩ quan chỉ cho chúng tôi hệ thống kính soi được lắp kính bốn mặt tường và họ giải thích rằng bà Lệ Xuân lắp hệ thống kính như thế để mọi hoạt động thân thể riêng tư của bà trong phòng nầy bà có thể ngắm được từ nhiều phía. Và người ta cũng hướng dẫn cho chúng tôi rằng phòng riêng của Tổng Thống Diệm gần phòng riêng của cô em dâu. Ông Ngô Đình Nhu muốn vào phòng riêng của của vợ phải đi qua phòng của anh trai ông. Không rõ thực hư như thế nào, cho đến bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu có đúng như thế không và tại sao như vậy?
Và Nguyễn Đắc Xuân viết tiếp:
Những thành viên trong đoàn sinh viên Huế đi tham quan ngày ấy, hiện nay vẫn còn ở Huế khá đông như nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, bác sĩ Phạm Thị Xuân Quế, anh Lý Văn Nghiên, ở Đà nẵng có bác sĩ Lê Quang Tái, ở TP Hồ Chí Minh có Tiến sĩ Thái Thị Ngọc Dư, nhà giáo Nguyễn Đình Hiển, ở Đức có Tiến sĩ Thái Thị Kim Lan, ở Pháp có Lê Thị Thảo; ở Mỹ có Nguyễn Thị Kim Tri, ở Úc có Nguyễn Thị Kim Xuyến v.v… Ba thành viên chủ chốt trong đoàn nay không còn nữa là Nhà thơ Trần Quang Long (ra trường năm 1965), tham gia kháng chiến và hy sinh ở chiến trường Tây Ninh năm 1968; Nguyễn Thiết đang học năm thứ ba thì thoát ly, phụ trách Thanh niên Thành ủy Huế, hy sinh năm 1968; Vĩnh Kha, về sau làm Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Huế, lãnh đạo sinh viên phát động các cuộc đấu tranh chống các chính quyền Diệm mà không có Diệm. Kha mất vì bệnh gan vào giữa những năm Tám mươi.
Theo ông Ngô Bảo (nhà thầu tốt nghiệp trường Mỹ thuật bên Pháp) có trách nhiệm trang trí tư dinh của Tổng thống Ngô Đình Diệm cho người viết hay: phòng ăn dinh Gia Long được trang trí với tranh sơn mài Thành Lễ. Riêng phòng bà Nhu chỉ treo độc nhất một bức anh vẽ bán thân bà Nhu, do hoạ sĩ Nguyễn Khoa Toàn vẽ (1). Bức tranh vẽ bà Nhu mặc áo cánh lụa, có hơi rõ nét nổi lên phần ngực phía trong làn áo. Chỉ có vậy. Người viết hỏi thêm, có thấy các bức tường chung quanh phòng bà Nhu đều có gương phản chiếu không? Ông Ngô Bảo cho biết: Làm gì có chuyện đó. Tường thường như mọi bức tường nhà khác.
Chi tiết mà ông Ngô Bảo, nay đã 78 tuổi, cho biết một lần nữa chứng tỏ chắc chắn rằng Nguyễn Đắc Xuân đã bịa đặt, viết lếu láo và đám nam nữ sinh viên cùng tham dự buổi tham quan dinh Gia Long đã im lặng. Im lặng ở đây được coi là đồng loã.
Dù chỉ nhìn thoáng qua, ấn tượng về ông còn được ghi nhớ mãi trong tôi. Nhưng ấn tượng đó còn được ghi khắc thêm là trong số học trò của ông Nhu có linh mục Phước. Lm Phước kể lại cho tôi là có dịp đi Đà lạt sau này, có đến thăm thày cũ. Ông đã hết lời nói về gia đình thày của mình. Ông Nhu thì học cao, hiểu rộng, tài trí hơn người. Ai ai cũng phải nhìn nhận như vậy. Cụ Đoàn Thêm nhận xét: “Về phương diện trí thức, trình độ của ông Nhu rất cao. Học vấn cổ điển và nhân bản của ông rộng và vững. Qua lời nói ề à, kẻ chú ý có thể bắt gặp những nhận xét sâu sắc về người và việc, một sự khó thấy ở ông Diệm, và ít thấy ở người chung quanh.”
Bà thì vừa xinh, vừa trẻ đẹp, giữ gìn gia phong nề nếp. Thêm một lần nữa, tôi có một ấn tượng rất tốt đẹp về bà Nhu. Theo cha Phước khi đến thăm ông Nhu cùng với vài người khác ngồi ở phòng khách. Chủ khách đàm đạo trong khi bà Nhu không dám ngồi mà chỉ đứng chắp tay vào nhau để trước bụng.
Đấy là cử chỉ của những gia đình có lễ giáo nghiêm ngặt. Tôi không nói thêm cho bà cũng không nói bớt cho.
Nghe sao thì nói lại.
Mà câu chuyện này tôi nghe khi còn ở ngoài Bắc trước khi có cuộc di cư.
Cung cách ấy, cử chỉ như thế, giáo dục nghiêm ngặt, lễ giáo như thế. Sau này có điều gì đi nữa. Làm sao tôi có thể nghĩ xấu cho người phụ nữ này được?
Ai nghĩ xấu thì đó là việc của họ. Còn tôi thì không. Ai ghét thì cứ việc. Còn tôi không là không. Nói xấu cho một người thì dễ. Kính trọng được một người thì mới là điều khó.
Bẵng đi một thời gian gần 10 năm, tôi lại có dịp khác “gặp lại” ông Nhu trong một khung cảnh khác. Hồi ấy, tôi còn là sinh viên Đại học Đà Lạt nên thường tham dự những buổi lễ do nhà trường tổ chức. Đôi lần lại có dịp được thấy ông Nhu. Ông không mặc áo bốn túi nữa, mà áo veste. Gương mặt có phần trĩu nặng ưu tư. Mặc dầu là cố vấn Tổng Thống, ông xuất hiện hết sức low profile. Ngồi một góc. Im lặng. Ai khen thì khen. Ai vỗ tay thì vỗ. Ông vỗ nhẹ tay lấy lệ, còn vẫn ngồi bất động như thể đang nghĩ về một vấn đề gì khác. Gần như ông không chú ý đến ai cả. Có cảm tưởng như ông bắt buộc phải ngồi đó. Có thể ông ghét những thói bề ngoài rình rang với đôi chút tâng bốc, xu phụng. Cả buổi lễ, ông chỉ ngồi chống tay trên thành ghế. Không nhúc nhích, không nói nửa lời.
Nói như cụ Đoàn Thêm thì ông Nhu “cử chỉ lạnh lùng bắt người ta nhớ đến câu của Racine gán cho Néron: ‘Ami ou ennemi, il suffit qu’on me craigne’ (Bạn hay thù, miễn là họ biết sợ mình là đủ).”
Phần tôi, có lẽ chẳng có lệ thuộc gì với ông, tôi nhìn chăm chăm vào ông. Kính phục thì có, sợ thì không.
Tôi dành cả buổi lễ quan sát ông không sót một cử chỉ nào. Ông khác hẳn các viên chức như các ông Trương Vĩnh Lễ, Trương Công Cừu. Cụ Lễ thì khúm núm ra mặt. Các ông lần lượt lên rước lễ mà chắc hẳn ông Nhu không hề chú ý đến những cử chỉ , thái độ của mấy ông này.
Ông không phải là loại người của đám đông.
Cứ nghĩ lại coi, trong 9 năm cầm quyền. Có bao giờ thấy ông Nhu xuất hiện công khai, đăng đàn diễn thuyết (chỉ trong trường hợp thuyết trình học tập như ở Suối Lồ Ồ) đao to búa lớn, hay hình ảnh đăng dài dài trên báo hà rần, cờ xí, duyệt binh, gắn lon gắn chậu, tiền bạc xa hoa, xe cộ tiền hô hậu ủng.
Không. Ông Nhu ít xuất hiện, ít phô trương. Ngược lại kín đáo, nấp sau bóng dáng Tổng Thống.
Tôi đã đọc lại các số báo Lập Trường, Hành Trình, Đất nước và Trình bày sau 1963. Không hề nghe thấy một lời phê phán về cá nhân ông Ngô Đình Nhu. Tiền bạc không, nhà cửa dinh thự không. Mấy ai đã làm được như vậy? Xin hãy đọc vài dòng của cụ Đoàn Thêm viết về ộng Nhu để thấy con người ấy sống như thế nào:
“Tôi còn ghi nhận những ống quần nhầu không ủi, chiếc sơ mi hở cổ cộc tay và hơi cũ, đôi dép da quai sờn . Y phục sức quá sơ sài của em một Thủ tướng khiến tôi phát ngượng, lúng túng trong bộ đồ lớn của tôi. Tôi càng thấy khó hiểu, khi mục kích ông co ro cùng vợ con trong một căn phòng nhỏ hẹp trên lầu dinh Độc lập, tuy còn những phòng rộng rộng lớn và đẹp hơn. Theo một người thân cận, thì ông không muốn ở trong Dinh, chỉ chờ dịp dọn đi, nhưng Ông Diệm không nghe, quyết giữ ông lại để còn luôn luôn hỏi việc. Căn cứ vào những lời ông nói và nếp sống bề ngoài của ông, tôi đã kết luận rằng ông tránh tiếng lợi dụng quyền lực và địa vị của ông anh … Ngay cả hai chữ cố vấn cũng chỉ là nhận bất đắc dĩ.
Theo như lời kể của cụ Đoàn Thêm:
“Đến khi cần cử ông qua Pháp thương thuyết với thủ tướng Edgar Faure, một số người trong chánh phủ thấy ông phải đi với một danh nghĩa chính thức hơn là với tư cách bào đệ ông Diệm. Nên hai chữ cố vấn đã được đem dùng để đồng thời thừa nhận một sự vẫn được coi là hiển nhiên. Ông cũng biết là không tránh được chức vị… Ông Nhu không thoát khỏi lệ thường, nên chỉ tới đầu 1956 là ông hết phản đối (Không chịu người ta gọi là ông cố vấn).
Người nào đã đọc cụ Đoàn Thêm thì đều hiểu rằng, cụ viết cẩn trọng, tương đối khách quan, khen có mà chê cũng có. Vậy nên những nhận xét của cụ phải được coi là khuôn thước, tránh được cái tệ nạn bôi bẩn hay xưng tụng quá mức.
Ông cố vấn sống thanh đạm và đơn giản như thế, hẳn người phụ nữ nào làm vợ ông cũng phải là người thế nào?
Tư cách ở chỗ ấy, trí thức thứ thiệt ở chỗ ấy. Cứ thử nhìn lại, những người thay thế ông sau này, quyền bính vào trong tay, họ đã hành xử thế nào? Cứ như ông Đỗ Mậu hồi làm phó thủ tướng văn hóa, dù chỉ trong một thời gian ngắn, ông xuất hiện nhiều lần hơn gấp bội ông Ngô Đình Nhu trong 9 năm làm cố vấn?
Có một vị nào sau này lên cầm quyền có một phong cách trí thức như một Ngô Đình Nhu và tư cách một kẻ sĩ như một Ngô Đình Diệm?
Từ đầu đến giờ, tôi chỉ muốn nói về CON NGƯỜI mà không đề cập gì đến chính trị. Hay nói như cụ Đoàn Thêm, chế độ đệ nhất cộng hoà là nhân trị hơn pháp trị. Nhưng nếu con người mà không xứng đáng thì nói chi đến thứ khác?
Sau này, tại California, tôi lại một lần nữa nghe từ những người trước nay từng có cơ hội gần gũi ông bà Nhu, ông Diệm, Ông Cẩn, ông Thục.
Tôi đã nói chuyện với sĩ quan tuỳ viên Lê Châu Lộc, sau này là nghị sĩ Lê Châu Lộc. Ông Lộc với bản chất trung thực cho biết, ông biết gì nói nấy, có nói có, không nói không. Ông cho biết 6 năm làm sĩ quan tuỳ viên cho “ông cụ”, kề cận ông cụ ngày đêm. Trong 6 năm đó chỉ gặp bà Nhu trên dưới 10 lần, vì hai ông bà ở khu bên kia dinh Tổng Thống, ít có tiếp xúc qua lại. Ông không mấy thích bà Nhu vì giọng nói của bà Nhu lai Bắc, lai Trung và tính nết tỏ ra cao ngạo. Nhưng đối với tổng thống Diệm thì bà sợ và cử chỉ e dè, khép nép. Không có cái cảnh muốn ra vào văn phòng ông Diệm lúc nào thì vào. Bà là người có phong cách, lịch sự và đàng hoàng. Ông đưa ra hai giai thoại liên quan đến bà Nhu.
Một lần xe của bà Nhu vào Dinh trong khi sắp có xe của một vị tướng Mỹ sắp đến. Ông Lộc đã yêu cầu xe của bà Nhu nhường lối. Bà Nhu vui vẻ nhận lời trong khi người tài xế của bà tỏ vẻ khó chịu. Sau đó bà đã vui vẻ chào.
Một lần nữa, ông Lộc vội vã không kịp chào bà Nhu. Vậy mà việc cũng đến tai “ông cụ”. “Ông cụ” cho biết: Lộc nó là sĩ quan thì chỉ chào sĩ quan có cấp cao hơn, hà cớ gì lại phải chào bà Nhu.
Những chi tiết nhỏ đó cũng cho thấy có nhiều điều xàm tấu, bôi bẩn mà công việc của chúng ta là cần “làm vệ sinh” tẩy rửa những dư luận xấu xa đó.
Trường hợp thứ hai là nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh.
Nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh là người được chọn chính thức chụp ảnh cho gia đình ông Ngô Đình Diệm trong các buổi lễ chính thức. Vì thế, ông đã nhiều lần ra Huế để chụp ảnh cho gia đình ông Diệm.
Ông đã kể lại một cách sinh động duyên dáng về những nhân vật thời đệ nhất cộng hoà. Nhiều nhà văn, nhà báo đã tham dự và được nghe ông kể về những điều này tại toà soạn báo Nhân Chứng, khoảng năm 1980. Đó là Mai Thảo, Phạm Đình Chương, Du Tử Lê, Vũ Văn Hà, Thuỵ Châu, v.v…
Theo lời kể của anh Trần Cao Lĩnh, ông đã hết lời đối với gia đình ông Diệm và đặc biệt là đối với bà Nhu. Bà Nhu là loại người phụ nữ chẳng những có ăn học, có giáo dục. Cử chỉ phong cách quý phái, chừng mực lễ độ trong cư xử. Không phải loại người bờm xơm, cớt nhả, dâm đãng, mất nết như những lời bịa đặt của dư luận ác ý.
Tại Huế, chỉ các đàn ông như các ông Diệm, ông Nhu, GM Thục mới được phép ở nhà trên dùng cơm. Bà Nhu chẳng những sợ và khép nép với ông Diệm mà còn cả với Giám mục Ngô Đình Thục. Theo nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh, Bà Nhu không dám tự tiện vào phòng ông Diệm.
Nhưng phỏng được bao nhiêu người có cơ hội tiếp xúc với bà Nhu, hiểu bà Nhu như ông Trần Cao Lĩnh để rồi kính trọng nhân cách con người bà?
Phải thú thực không có bao nhiêu. Không mấy ai biết bà, nhưng ghét bà, khinh miệt bà thì gần như tất cả. Đàn ông ghét đã đành, đàn bà cũng ghét theo. Ghét ngay từ những năm1955 khi chưa có Quốc Hội, chưa có Hội Phụ nữ Liên đới hay phụ nữ Bán Quân sự. Dưới mắt đám đông, bà Nhu chỉ là một người phụ nữ “mất nết”, ăn mặc hở hang, lố lăng với chiếc áo dài kiểu mới. Phụ nữ chê bai tư cách của bà trong chiếc áo dài kiểu mới, nhưng không ai bảo ai, giới nữ sinh đến loại mệnh phụ phu nhân đều ăn mặc theo kiểu áo dài đó.
Đến độ vào năm 1955, ông Diệm chép miệng than thở: Tội nghiệp, Bà Nhu có làm gì đâu? Không làm cũng chết chỉ vì bà là một người đàn bà. Lại thường nói quá mạnh, cứng rắn trong quan điểm, lập trường, không nhường nhịn. Đàn ông nào nó chịu được.
Có lẽ chúng ta lại cần đến lời bàn của cụ Đoàn Thêm khi nhận xét về bà Nhu xem sao.
Theo cụ Đoàn Thêm:
– Dù không làm hay chưa làm việc gì có hại, người đàn bà không thể thừa thế nhà chồng mà xen vào việc chính quyền.
– Sự ra mặt của bà, dưới mắt số đông, trái ngược hẳn với hình ảnh cố hữu của phụ nữ Á Đông khiêm nhượng, ý nhị hiền hậu, của người mẹ và người vợ Việt Nam.
– Nguyên do sâu xa nhất và đích thật nhất, theo cụ Đoàn Thêm là nỗi ác cảm với bà là do người đã đẹp mà lại muốn khoẻ và hách nữa thì quá lắm, không chịu nổi. Đối với ông Nhu thì người ta còn nhẫn nhịn chờ đợi, nhưng đối với bà thì ngay cả sự xuất đầu lộ diện cũng không được tán thành hay dung thứ.
– Nên dù trái hay phải, gnười đàn bà VN muốn vội sống theo gương đàn bà tiền phong (avantgarde) Âu Mỹ, tất chưa thể được yên thân trên một đất nước mà nhiều người còn ghê sợ những Võ Hậu và những Từ Hy.
– Tâm lý số đông như vậy nên nhiều con mắt dễ nhìn thấy những sơ hở và lỗi lầm để buộc lỗi gay go. Mỗi lời nói và việc làm của bà đều là những cớ, những dịp cho dư luận chỉ trích nghiêm ngặt.
– Sự ra mặt của bà, dưới mắt số đông, trái ngược hẳn với hình ảnh cố hữu của phụ nữ Á Đông khiêm nhượng, ý nhị hiền hậu, của người mẹ và người vợ Việt Nam.
– Nguyên do sâu xa nhất và đích thật nhất, theo cụ Đoàn Thêm là nỗi ác cảm với bà là do người đã đẹp mà lại muốn khoẻ và hách nữa thì quá lắm, không chịu nổi. Đối với ông Nhu thì người ta còn nhẫn nhịn chờ đợi, nhưng đối với bà thì ngay cả sự xuất đầu lộ diện cũng không được tán thành hay dung thứ.
– Nên dù trái hay phải, gnười đàn bà VN muốn vội sống theo gương đàn bà tiền phong (avantgarde) Âu Mỹ, tất chưa thể được yên thân trên một đất nước mà nhiều người còn ghê sợ những Võ Hậu và những Từ Hy.
– Tâm lý số đông như vậy nên nhiều con mắt dễ nhìn thấy những sơ hở và lỗi lầm để buộc lỗi gay go. Mỗi lời nói và việc làm của bà đều là những cớ, những dịp cho dư luận chỉ trích nghiêm ngặt.
Bi kịch của chế độ bắt đầu từ chỗ đó. Người ghét cứ ghét, cứ mỗi ngày mỗi nhiều thêm do cái thể chế tam đầu chế, cộng thêm một người phụ nữ là bà Ngô Đình Nhu.
Những người ngưỡng mộ và quý mến bà chẳng bao nhiêu. Sau khi nghe ông Trần Cao Lĩnh kể về bà, có người đề nghị ông nên viết lại về bà Nhu. Vì không ai có đủ tư cách hơn ông để viết. Nhưng rồi ông cũng đã không làm cho đến khi ông lìa đời. Cũng hiểu được, bênh vực một người “mất nết” như bà Nhu nó khó lắm. Tôi hiểu.
Ngay như hơn hai chục nam nữ sinh viên đã tham dự trong phái đoàn Huế đi tham quan dinh Gia Long sau khi hai ông Diệm Nhu bị thảm sát. Họ im lặng đồng lõa với Nguyễn Đắc Xuân. Họ chấp nhận gián tiếp những điều bôi nhọ bà Nhu của Nguyễn Đắc Xuân. Tôi chỉ yêu cầu một cô nữ sinh viên trong số họ cho biết những điều Nguyễn Đắc Xuân viết là đúng hay sai. Nói sai dĩ nhiên là không dám nói. Nói đúng thì hóa ra đồng lõa bôi nhọ. Trả lời khôn ngoan nhất là không nhớ. Không nhớ gì hết.
Theo quý vị độc giả, tôi phải nghĩ thế nào về những sinh viên đã im lặng, không dám lên tiếng về những lời vu cáo của Nguyễn Đắc Xuân?
Nhưng nếu chúng ta có thể tạm quên đi tất cả những điều thị phi, những lời khen chê, những lời bôi nhọ dơ bẩn về bà ấy để chỉ nhìn lại kể từ tháng 11/1963 đến nay bà Nhu đã làm gì? Đã nói gì? Đã viết gì? Và đã sống như thế nào?
Kể từ sau tháng 11/1963, bà rút lui vào bóng tối. Không nói. Cắt đứt mọi liên lạc với mọi người trước nay từng là những người cộng tác với hai ông Diệm và Nhu. Một vài người đã có dịp gặp bà như các ông Cao Xuân Vỹ, Lê Châu Lộc đều nhận thấy bà sống cuộc đời ẩn dật và sống chết với quá khứ đó. Ai hiểu được tâm trạng và nỗi buồn, nỗi đau của bà gần 50 năm này?
Và trong thời gian đó, bà đã sống đúng nhân cách một người phụ nữ? Những năm tháng ấy đã tẩy rửa những điều hàm oan về tiền bạc, con người của bà?
Kể như bà đã chết cùng với hai anh ông Diệm Nhu. Đối với bà, cuộc sống đã không còn nữa. Sự im lặng của bà mang nhiều ý nghĩa: Đắng cay và tủi hận.
Những ai từng kết án bà thì xin nhớ rằng nếu bà là loại người tham tiền cố vị, không tư cách hay tệ hơn nữa trăng hoa, mất nết… Chúng ta sẽ thấy một bà Nhu sống buông thả, quen biết lung tung, tai tiếng đủ loại sau 01/11/1963.
Nhưng ngay những kẻ thù oán, chuyên đặt điều nói xấu bà cũng không có được bằng cớ nhỏ nhoi gì để bôi nhọ bà.
Bà sống ẩn dật một thời gian ở Ý rồi sang Pháp mua hai căn hộ nhỏ, một để ở và một để cho thuê lấy tiền tiêu xài. ngày ngày đi lễ nhà thờ, lấy kinh nguyện làm lẽ sống.
Một con người như thế, chịu biết bao điều sỉ nhục, biết bao điều tệ bạc, phản trắc về thế thái nhân tình.
Nhân cách ấy, cách chọn lựa lối sống ấy, không phải là dễ, không phải ai cũng làm được. Và chỉ cần nhìn lại những tháng ngày sau 1963, tôi nghĩ thật mấy ai đã làm được như bà?
Người ta đồn bà đang viết nhật ký. Mong là như vậy . Ông Lê Châu Lộc có nói với tôi là bà viết nhiều lắm. Tôi chỉ biết vậy.
Trong cuộc sống này, trong suốt những năm làm vợ ông Nhu. Tôi mường tượng hình ảnh mô tả của nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh nói tới ánh mắt reo vui, âu yếm của ông khi nhìn mẹ con bà Nhu ăn mặc chuẩn bị chụp hình. Đặc biệt , ông nuông chiều cậu Út.
Đó là một gia đình êm ấm.
Ông đã chết từ 02/11/1963.
Phần bà Nhu đã chết kể từ ngày ấy. Nhưng bà chết đến hai lần: chết cho ông Nhu và nền đệ nhất cộng hoà và chết cho chính bà, cho cuộc sống hiện nay.
Nghĩ đến hai người phụ nữ danh tiếng tài sắc trong lịch sử Việt Nam cận đại là Nam Phương Hoàng hậu và bà Ngô Đình Nhu, tôi không khỏi có chút so sánh và ngậm ngùi, thương tiếc cho hai người phụ nữ tài sắc ấy mà số phận dành cho họ không khỏi bất công.
Tôi quý mến ông Diệm, tiếc cho ông Nhu và trân trọng quý mến bà quả phụ Ngô Đình Nhu.
2 tháng 11, 1963 – Nhớ về ông bà Ngô Đình Nhu
Nguyễn Văn Lục (2010/10/20)
Nguyễn Văn Lục (2010/10/20)
Thanh Phong/Viễn Đông (thực hiện)
Cập nhật lúc 7:25:20 PM – 26/04/2011
Như Viễn Đông đã loan tin, bà Ngô Đình Nhu, nhũ danh Trần Lệ Xuân đã qua đời tại Roma, thủ đô Ý Đại Lợi, vào lúc 2 giờ sáng Chúa Nhật lễ Phục Sinh 24-4-2011. Cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 xẩy ra lúc bà Nhu đang có mặt tại Hoa Kỳ để “giải độc”, Anh chồng của bà là cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và phu quân của bà là ông cố vấn Ngô Đình Nhu đã bị phe đảo chánh giết trên đường từ nhà thờ Cha Tam về Bộ Tổng Tham Mưu. Từ đó đến nay bà sống ẩn dật tại Pháp và Ý, qua đời tại một bệnh viện ở thủ đô Ý Đại Lợi. Sau cuộc đảo chánh, nhiều người đã viết sách nói về bà Nhu với nhiều ẩn ý.
Để tìm hiểu về bà, ngày 25-4-2011, chúng tôi đã phỏng vấn cụ Cao Xuân Vỹ, nguyên Tổng Trưởng Thanh Niên Đệ Nhất Cộng Hòa và ông Lê Châu Lộc, cựu Tùy Viên của cố Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm và cựu Nghị Sĩ Đệ Nhất Cộng Hòa.
Riêng cuộc phỏng vấn cụ Cao Xuân Vỹ, nội dung những lời cụ nhận xét về bà Ngô Đình Nhu cũng tương tự như cuộc mạn đàm giữa cụ và ông Võ Long Triều (Viễn Đông đã đăng trong số báo hôm qua 26-4-2011). Chỉ có một điều cụ tiết lộ cho chúng tôi là làm cách nào Luật Sư Trương Phú Thứ được gặp bà Ngô Đình Nhu để viết hồi ký. Cụ Cao Xuân Vỹ nói: “Từ hồi đảo chánh tới giờ, bà không tiếp ai cả. Ông Thứ đến tôi mấy lần, năn nỉ tôi giới thiệu cho ông được gặp bà Ngô Đình Nhu, nể tình tôi mới chỉ vẽ cho ông Thứ là hãy lên Đà Lạt, tìm đến căn nhà của bà Nhu đang xây dở dang, chụp tấm ảnh rồi đem qua bên đó, nói là mới ghé thăm căn nhà của bà, có chụp tấm ảnh đem lại biếu bà, vì khi xưa bà Ngô Đình Nhu có mua một căn nhà trả góp tại Đà Lạt, bà cho tu sửa nhưng chưa xong thì xẩy ra đảo chánh, và bà vẫn mong ước làm sao được nhìn thấy căn nhà đó”.
Theo cụ Vỹ, ông Trương Phú Thứ đã làm theo lời cụ Vỹ chỉ vẽ, và đã được gặp bà Ngô Đình Nhu, còn việc làm sao ông thực hiện cuốn Hồi Ký cho bà, thì phải hỏi Luật Sư Trương Phú Thứ.
Sau đây là nôi dung cuộc phỏng vấn Nghị Sĩ Lê Châu Lộc.
Viễn Đông: Xin chào Nghị Sĩ Lê Châu Lộc. Theo chỗ chúng tôi được biết, ông từng là Tùy Viên cho cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, xin ông vui lòng cho độc giả nhật báo Viễn Đông được biết những gì ông biết về bà Ngô Đình Nhu.
Nghị Sĩ Lê Châu Lộc: OK, tôi biết cái gì thì tôi nói nghe, tôi không có phịa ra được, tánh tôi hồi đó tới giờ là như vậy, tôi biết thì tôi nói, không biết thì tôi dựa cột nghe chứ không như mấy tay con nít, hồi đệ nhất cộng hòa mới đi học lớp chót, mà nói chuyện ông Tổng Thống Ngô Đình Diệm cứ như nằm ở dưới giường của ông ấy vậy.
Viễn Đông: Từ sau cuộc đảo chánh 1-11-1963 đến nay, đã có lần nào bà Ngô Đình Nhu liên lạc với ông không?
NS. Lê Châu Lộc: Có, nhưng mới gần đây thôi. Tôi xin nói rõ là hồi đó bà đi qua Mỹ để giải độc thì ở nhà xẩy ra cuộc đảo chánh cho nên suốt thời gian đó cho đến mãi mấy tháng trước đây tôi mới được nói chuyện lại với bà, là nhờ một dịp may có người bạn chuyển lời của tôi chào thăm bà, nên sau đó bà gọi và tôi nói chuyện với bà, trước khi bà vào nhà thương mấy tuần nay, chỉ có lần duy nhất này thôi, gần 50 năm tôi mới lại nói chuyện với bà.
Viễn Đông: Trong cuộc nói chuyện này, bà Ngô Đình Nhu có trao đổi với ông vấn đề gì đặc biệt không, thưa ông?
NS. Lê Châu Lộc: Câu đầu tiên bà nói: “Lâu quá tôi mới nhớ lại ‘ông sĩ quan’”, giống như bà thường kêu tôi ở dinh Độc Lập hay Dinh Gia Long vậy thôi, vì tôi là sĩ quan tùy viên của Tổng Thống, nên bà tránh kêu tên tôi mà kêu là ông sĩ quan như người Việt mình vẫn hay kêu như vậy. Sau đó, tôi và bà có nói chuyện về một số tài liệu mà bà nhờ người này, người nọ edit giùm, tôi cũng có phụ trong đó một phần, phần nhỏ thôi, tại vì tôi không có thì giờ. Chỉ hỏi thăm sức khỏe và nói mấy chuyện đó chứ không đề cập chuyện gì đặc biệt, mới mẻ hay giựt gân cả.
Viễn Đông: Hình như bà Ngô Đình Nhu có viết hồi ký, Nghị sĩ có biết việc đó không?
NS. Lê Châu Lộc: Thật ra nhiều người đồn đãi lâu rồi, tôi biết ông Trung Tướng Khánh xăm xê viết hồi ký của bà Nhu, nhưng tôi coi ra thì chẳng phải hồi ký gì, nhưng từ đó tới giờ nhiều người lăm le để có cái lợi gì đó mình không biết, nhưng cái này cũng có thể gọi là hồi ký, cũng có thể coi như là những lời ghi lại phần lớn tâm tư của bà khi bà sống cuộc đời cô đơn, góa bụa như vậy, trong đó nó thể hiện cái “tâm đạo” của bà, những lời than thở, cầu nguyện, khóc lóc với Thiên Chúa về những nỗi bất công mà dân Việt Nam mình phải chịu, về những nỗi bất công mà gia đình bên chồng bà phải chịu, rồi bà hết sức cầu xin cho nước Việt Nam mình sớm trở lại thời kỳ thanh bình mà dân tộc Việt Nam mình được người ta kính trọng. Đại loại cái đề tài cầu nguyện của bà nó xoay quanh cái đau khổ của dân tộc Việt Nam, mà bà là cái người gần gũi nhất cho nên gánh chịu những hậu qủa tàn khốc nhất, thành thử đó là cái tôi biết được, còn nói về vấn đề chánh trị, những cái giựt gân, v.v., thì không có. Cũng có thể có một vài ba vấn đề sinh hoạt quốc gia nhưng không có gì đặc biệt cả.
Viễn Đông: Trong tập tạm gọi là hồi ký đó, có chỗ nào bà Ngô Đình Nhu tỏ dấu trách móc, oán hận những người làm hại gia đình bà?
NS. Lê Châu Lộc: Tôi không cảm thấy có sự oán hận như anh dùng chữ đó, chữ buồn phiền, khóc than thì có thể có, đó là cái tâm tư muốn thấy lại một sự thật mà người ta đã chôn vùi hoặc trả lại cho dân tộc Việt Nam mình công lý và hòa bình, mà mình đã đánh mất do một số người ngu dại làm sai, thì cái đó có. Còn bảo rằng cái hận thù thì tôi đọc tôi không thấy bà đề cập đến, mà tôi có cảm giác như đọc một cuốn hồi ký của một nữ tu.
Viễn Đông: Theo như Luật Sư Trương Phú Thứ cho biết, những ngày gần đây ông ấy vẫn thường xuyên liên lạc với bà Ngô Đình Nhu để hoàn thành cuốn Hồi Ký, và sẽ cho ra mắt vào tháng 9 hay tháng 10 này; việc đó như thế nào, thưa ông?
NS. Lê Châu Lộc: Đúng.
Viễn Đông: Như vậy, chính tay bà Ngô Đình Nhu ghi hồi ký hay bà nói để Luật Sư Trương Phú Thứ viết?
NS. Lê Châu Lộc: Đa số do chính tay bà viết, cũng có một phần do ông Thứ thâu lại khi ông trực tiếp thăm viếng bà.
Viễn Đông: Một số sách báo viết rằng, khi làm Dân Biểu, là vợ của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, đôi khi bà có những cử chỉ, hành động có vẻ cao ngạo trong cách cư xử với Tổng Thống hoặc phu quân của bà. Là người Tùy Viên Tổng Thống, thường xuyên có mặt trong Dinh, xin ông cho ý kiến?
NS. Lê Châu Lộc: Những người nói hay viết đó, anh có điều tra không? Anh có hỏi: Ông là ai, bà là ai? Chú là ai, cậu là ai? Mà ở đó vào lúc nào, biết được, thấy được và nghe được vào lúc nào hay không? Chắc là không, phải không? Nếu anh nói được cho tôi người nào đó trực tiếp nghe được và nói thì tôi sẵn lòng tôi nghe, còn người ta viết mà họ không tham khảo, không dẫn chứng được mình là ai, không chứng minh được thì cái tin đó ở đâu thì không có giá trị gì, chúng ta đừng nên để ý tới làm gì.
Về vấn đề cư xử thì ở Dinh Gia Long hay Dinh Độc Lập, gia đình ông bà Cố vấn cũng đôi khi qua lại nhưng không qua lại lu bù, đâu đó có nề nếp hết.
Khi mà bà Ngô Đình Nhu muốn tham khảo Tổng Thống thì cũng phải qua sĩ quan tùy viên là chúng tôi, thường bà nói: “Ông sĩ quan, tôi có một vần đề muốn xin trình với Tổng Thống, ông sĩ quan thấy Tổng Thống có rảnh lúc nào?”. Thì tôi coi cái chương trình làm việc của Tổng Thống ngày đó, tôi nói: “Dạ không, bữa nay không có” hay “Bữa nay có lúc mấy giờ…”. Thì bà nói: “Cũng được, thôi thì ông trình với Tổng Thống cho tôi xin gặp Tổng Thống chút được không”? Tôi vào trình, nếu Tổng Thống cho thì tôi mời bà vô còn không thì thôi, vậy đó chứ không có chuyện ra vô lu bù. Tôi xác nhận hoàn toàn không có.
Thứ hai là cái cử chỉ của bà đối với người chồng là ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu thế nào tôi không biết, nhưng mà hai vợ chồng ông, tôi không thấy bao giờ lớn tiếng. Cái này có lẽ phải hỏi những anh em cận vệ ở đó, chứ tôi không biết chuyện phòng the của hai ông bà.
Thứ ba là đối với Tổng Thống, bà một mực kính trọng, khi Tổng Thống nói không có rảnh thì bà vui vẻ ra về ngay. Có đôi khi Tổng Thống nói với tôi: “Anh bảo bà ấy chờ”, thì bà chờ. Đó là sự thật về cái nề nếp gia giáo trong gia đình họ Ngô. Ngay cả ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu muốn lên trình diện với Tổng Thống không phải cứ tự tiện vô, ông cũng phải qua sĩ quan Tùy Viên là chúng tôi, thường ông hỏi: “Anh Lộc ơi, cụ rảnh không?”. Thì tôi nói, thí dụ cụ rảnh lúc 12 giờ 15, thì ông Cố vấn nói, “Tôi chỉ nói chuyện với cụ khoảng 10, 15 phút thôi”, và tôi vô tôi thưa, thì Tổng Thống nói, ừ mời ông Cố Vấn vào. Và tôi thấy hai ông rất kính trọng nhau, tôi có thể quả quyết với anh về điều này, người nào nói ông Nhu hay bà Nhu lạm quyền muốn leo lên đầu Tổng Thống là không đúng. Chúng ta nên nhớ, thời đó là thời kỳ chúng ta chống cộng mà, chúng đâm bị thóc, thọc bị gạo, cố xuyên tạc, bôi nhọ, nó dùng chiến thuật tuyên truyền để mà khuynh đảo miền Nam.
Bây giờ ở vào thế chống cộng khó khăn mình mới thấy nó dùng truyền thông, nó bỏ 500 triệu đô la để nó thi hành cái đường lối thâm nhập, nó khuynh đảo mình. Hồi trước người ta không biết cho nên cứ nghe rồi đồn ra mà không chịu tìm hiểu sự thật gì hết.
Còn những người Mỹ mà nói ra những điều đó, anh coi kỹ lại đi, những người Mỹ đó có bao giờ vào thăm viếng một gia đình Việt Nam không hay đáp máy bay xuống là đến đường Tự Do, nói chuyện với mấy người đổi tiền, với mấy cô bán bar lấy tin tức về Việt Nam bằng cách đó, thì họ về họ viết trong sách vở, báo chí và ai cũng cứ tin theo đó mà không có biết cái chuyện thật như thế nào. Nên riêng với anh, tôi xin thưa, cái chuyện liên hệ giữa gia đình ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, kể cả bà Ngô Đình Nhu với Tổng Thống là một cái liên hệ Trên, Dưới rõ rệt.
Viễn Đông: Có một thời gian, ông Trần Văn Chương (thân phụ bà Ngô Đình Nhu) làm Đại Sứ VNCH tại Hoa Kỳ xin từ chức, nghe nói vì lý do chế độ của TT. Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo. Điều đó như thế nào, thưa ông?
NS. Lê Châu Lộc: Chuyện đàn áp Phật giáo có hay không, anh trả lời tôi nghe! Hồ sơ của Ủy Ban Điều Tra Liên Hiệp Quốc nó còn đó. Chuyện của ông bà Chương, rõ ràng lúc đó là hiểu sai. Từ hiểu lầm hoặc nó bị mờ tối gì đó như thế nào không biết, màcứ dựa theo tin tức của người Mỹ do những hỏa mù người Mỹ phóng ra, rồi xúm nhau người quốc gia Việt Nam mình cấu xé cho đến độ người Mỹ đem 500.000 quân nhảy vào rồi bỏ chạy có cờ, rồi bỏ mặc mình kéo nhau xuống biển mà chết, có không? Cái chuyện ông bà Trần Văn Chương làm, ngay chính bây giờ những người thân thuộc trong gia đình ông bà cũng rất khổ tâm!
Viễn Đông: Giả sử khi cuộc đảo chánh xẩy ra, bà Ngô Đình Nhu vẫn ở trong nước thì theo nhận xét của ông, tánh mạng của bà Ngô Đình Nhu có an toàn không?
NS. Lê Châu Lộc: Thật sự tôi không biết rõ cái quan điểm của người Mỹ đối với bà Ngô Đình Nhu, nhưng đối với Tổng Thống Diệm và ông Ngô Đình Nhu thì rõ ràng. Trong tài liệu đã giải mật, người Mỹ ra lệnh giết anh em Tổng Thống nhưng không thấy ra lệnh giết bà Ngô Đình Nhu.
Viễn Đông: Một cách tổng quát, xin Nghị Sĩ Lê Châu Lộc cho độc giả báo Viễn Đông biết cảm nghĩ riêng của ông về bà Ngô Đình Nhu.
NS. Lê Châu Lộc: Từ lâu tôi đã nghĩ thế này, chứ không phải sau khi bà Nhu qua đời, tôi cảm thấy buồn phiền và hối hận, vì cái chuyện dân mình đã không khôn ngoan đủ để mà có sự nhận xét về người, về việc, về đường lối, sách lược và ý đồ của cộng sản để rơi vào chính sách hỏa mù mà nguời bị chỉ trích ghê gớm nhất là bà Ngô Đình Nhu, tôi phải nói thật là tội nghiệp hết sức! Tôi không biết bà nhiều. Trong thời gian tôi làm hơn 4 năm có thể nói tôi gặp bả chừng lối năm, bảy lần gì đó, nói chuyện đôi ba lần. Ở trong những buổi tiếp tân, dạ yến, dạ tiệc gì thì bà giữ vai trò Đệ Nhất Phu Nhân thì tôi thấy bà là một người hiểu biết, khôn ngoan lắm mà bà giữ vai trò của bà là vợ hay là em dâu Tổng Thống rất đàng hoàng, bà giữ vai trò đệ nhất phu nhân bên cạnh Tổng Thống Diệm rất là xuất sắc. Bà có kiến thức tây học và đông phương, do đó ông bà đại sứ các nước Nhật Bổn, Ấn Độ, Đại Hàn hay Đài Loan, v.v., ai cũng rất kính nể bà. Đối với những người Tây phương như ông bà đại sứ Pháp, ông bà đại sứ Mỹ, Anh họ cũng quý trọng bà vô cùng, bởi vì bà bặt thiệp, lanh lợi và khôn ngoan, nhất là trong cái áo dài, gọi là áo dài hở cổ Ngô Đình Nhu, thì tôi thấy được một con người đàn bà có tinh thần tự trọng, có sáng kiến y như là người mẹ, người vợ, người chị, người em Việt Nam nào khác vậy, rất là có sự quán xuyến công việc. Bà làm việc đến nơi đến chốn.
Bà thảo ra Luật Gia Gia Đình, tôi cho là một cái luật tiến bộ cho đến giờ này, ngày hôm nay vẫn còn giá trị, chứng tỏ Việt Nam mình đã có quan niệm về phụ nữ đi trước Liên Hiệp Quốc cả 50 năm. Tại sao tôi nói vậy? Bởi vì cái Luật Gia Đình của bà Ngô Đình Nhu mục đích là để bảo vệ cho quyền lợi người phụ nữ Việt Nam, bảo vệ trẻ con Việt Nam và bảo vệ cho gia đình Việt Nam. Ấy thế mà với Mỹ và cộng sản nó thành ra cái luật cấm đàn ông Việt Nam lấy hai vợ. Khổ nỗi, cái sự tuyên truyền của nó khéo léo cho đến độ mà chính người phụ nữ Việt Nam mình cũng chống đối cái luật đó mới chết chứ! Bây giờ dòm lại, thấy cái luật đó thấy tiếc quá! Bây giờ cái trào lưu nhân loại nó tiến bộ, xuyên qua Liên Hiệp Quốc, nó đã thể hiện cái tinh thần phải kính trọng người phụ nữ, phải thương yêu, bảo bọc cho trẻ con, và nhiều quốc gia, thấy hoàn cảnh gia đình nó suy đồi thì đã cố gắng gây dựng lại cái gia đình như là nền tảng của một xã hội lành mạnh.
Vì vậy nhân bà Nhu nằm xuống, tôi nhớ tới một trong nhiều việc bà làm, đó là việc thảo ra Luật Gia Đình, và tôi mong rằng cái dịp này sẽ gây lại sự chú ý của thế hệ phụ nữ Việt Nam ở trong nước cũng như ngoài nước, để nhớ lại cái thân phận của mình, và để nhớ lại rằng đã có một thời kỳ, mình đã có một bộ luật mà hiện tại nó vẫn còn đó, có thể phải tiến hành nữa để làm sao cho người phụ nữ Việt Nam được có chỗ xứng đáng như là Liên Hiệp Quốc đã thể hiện như trào lưu của tư tưởng tiến bộ của nhân loại. Đó là chuyện làm tôi nhớ lại trong vai trò của bà Cố vấn ở trong đó, có những cách cư xử, sự khôn ngoan và trong vai trò Dân Biểu, bà đã làm gì và đã chứng tỏ bà là ai? Xuyên qua những lời mà tôi đọc ở mớ giấy bà viết, phần lớn bằng tiếng Pháp, tôi thấy bà là người có cái “tâm đạo” lớn, hết sức sâu sắc.
Suốt thời gian đó tôi không thấy có sự cay cú mà là sự khóc lóc, cầu nguyện để không phải xin cho mình, bởi vì bà sống cuộc đời như là ẩn tu, có đôi khi một ngày bà chỉ uống nước thôi, cái này ông Thứ ông làm chứng được, bà chỉ cầu nguyện xin làm sao để Ơn Trên thương đến dân Việt Nam, trả lại cho dân Việt Nam cái công lý để nó có thể đi tới hòa bình. Không có công lý cho dân tộc Việt Nam, chúng ta không có hòa bình. Dân tộc Việt Nam bị coi như một công cụ từ đời Tây thuộc rồi Mỹ thuộc, chỉ bắt đầu khi nền Đệ Nhất Cộng Hòa xây dựng một cái xã hội, trong đó có sự công bằng, nhân vị con người được tôn trọng rõ rệt trong đời sống quốc gia. Người phụ nữ được kính trọng, nên anh thấy một bước rất dài, từ thời Pháp thuộc tới thời kỳ Đệ Nhất Cộng Hòa, bao nhiêu người phụ nữ, không riêng gì chỉ làm bác sĩ, giáo sư mà vào quốc hội, làm nghị sĩ, dân biểu, làm những việc lớn trong xã hội. Con đường đó bị đứt đoạn vì cuộc đảo chánh năm 1963, thành ra nhân dịp này tôi nhớ lại vài đặc điểm đó của bà Cố Vấn Ngô Đình Nhu, nhưng đặc biệt tôi nhấn mạnh đến con người đó, có thể khó hiểu đối với một vài người, nhưng đối với tôi, giọng nói của bà vì có pha lẫn Bắc, Trung, Nam, bà là con của gia đình, người cha là Bắc, mẹ là Trung, sống ở trong Nam, lớn lên ở trong Nam, đi học trường Pháp cho nên ngôn ngữ có thể có những cái bất lợi, người ta nghe nó có hơi trái tai; cách trình bày làm cho người ta có thể nói là mất cảm tình. Hoặc là vì không có đủ thời giờ để giáo dục người phụ nữ Việt Nam, giáo dục người dân Việt Nam về quyền lợi thiết yếu của người phụ nữ và của dân Việt Nam, cho nên người ta hiểu lầm. Nói một cách chung, những công trình mà TT. Ngô Đình Diệm và Đệ Nhất Cộng Hòa cố gắng thành đạt, dĩ nhiên có sự thiếu sót gây nên sự đổ vỡ. Có dịp nào khác chúng ta sẽ nói nhiều hơn. Hôm nay qua câu hỏi của anh, tôi chỉ đưa ra một vài khía cạnh như vậy.
Viễn Đông: Xin chân thành cám ơn Nghị Sĩ Lê Châu Lộc, hẹn gặp ông vào dịp khác.
NS. Lê Châu Lộc: Thân chào các anh chị em trong tòa soạn và độc giả nhật báo Viễn Đông.
———————————
Cập nhật lúc 4:32:00 AM – 26/04/2011
Ông Võ Long Triều trò chuyện cùng ông Cao Xuân Vỹ
Chiều Thứ Hai, 25-4-2011, được tin bà Ngô Đình Nhu, nhũ danh Trần Lệ Xuân, qua đời hôm Chủ Nhật, thọ 87 tuổi, hai người bạn là nhà báo Võ Long Triều và ông Cao Xuân Vỹ đã có một buổi mạn đàm về bà Ngô Đình Nhu.
Ông Cao Xuân Vỹ là cựu tổng giám đốc Thanh Niên, thời Đệ Nhất Cộng Hòa, người rất thân cận với gia đình Ngô Đình Diệm – Ngô Đình Nhu. Ông Võ Long Triều đã cho phép nhật báo Viễn Đông đăng báo cuộc mạn đàm này.
Ô. Võ Long Triều: Thưa anh, bà Ngô Đình Nhu mới qua đời, anh biết chưa?
Ô. Cao Xuân Vỹ: Thưa, tôi có biết rồi. Bên Tây có gọi điện thoại báo cho tôi biết rồi.
Ô. Võ Long Triều: Báo chí nói bà Ngô Đình Nhu để lại nhiều ấn tượng cho người Việt Nam, có cái đúng, có cái sai, nhưng mà mình cũng mừng cho bà lúc sắp qua đời có con, có cháu đầy đủ bên cạnh và được lãnh phép xức dầu Thánh. Không biết khi còn trẻ, bà Nhu có giữ đạo giáo đàng hoàng không?
Ô. Cao Xuân Vỹ: Không những bà giữ đạo đàng hoàng mà còn giữ đạo khắt khe nữa là khác.
Ô. Võ Long Triều: Vậy thì quá tốt, nhưng mà gia đình bà là Phật giáo thành ra gặp bên nây là Công giáo, mà Công giáo rất là đạo đức thành ra không biết bà có làm phép giao với ông Nhu hay là được “chuẩn”?
Ô. Cao Xuân Vỹ: Có làm phép giao đàng hoàng vì gia đình bên đây khắt khe lắm. Nghiêm lắm.
Ô. Võ Long Triều: Khi người ta nói bà lạm quyền một phần tại vì là phu nhân của ông Ngô Đình Nhu. Sự lạm quyền đó, bây giờ quá khứ đã trôi qua, mình nghĩ lại, nó có lợi cho đất nước hay nó có hại cho đất nước?
Ô. Cao Xuân Vỹ: Bà Nhu có hơi văn minh một tý, muốn thể hiện lối sống mới một tý, thấy bà học trường đầm thành ra nhiều người không ưa, ghét bà rồi nói này nói kia chứ thực ra bà nguyên tắc lắm đó. Trong gia đình bà, bà nghiêm khắc lắm. Con bà, bà dạy theo kiểu lễ giáo Việt Nam theo Nho giáo, tôi ở bên cạnh tôi biết.
Ô. Võ Long Triều: Bà Nhu bị nhiều tiếng oan lắm; có một vụ bà tuyên bố không biết có thiệt hay không, nó hơi bừa bãi, lúc mà ông Thích Quảng Đức tự thiêu, bà nói cái này là “barbecue”, có không anh?
Ô. Cao Xuân Vỹ: Bà có nói câu này, có xúc phạm đến tôn giáo. Tánh của bà rất thẳng thắn và có thể bà ảnh hưởng văn hóa Tây phương, vì xưa bà học trường đầm mà.
Ô. Võ Long Triều: Còn vụ ngày xưa, em bà ly dị hay gì đó, tôi không biết, nhưng mà “thôi” với anh luật sư Nguyễn Hữu Châu. Hồi tôi qua Pháp, tôi có gặp ảnh. Có phải tại vì vậy mà bà Nhu ra Luật Gia Đình, một vợ một chồng?

Trần Lệ Chi, chị ruột bà Nhu (1) Nguồn: Corbis
Ô. Cao Xuân Vỹ: Không phải vì vụ em bà mà bà Nhu đã chống quan niệm “trai năm thê bảy thiếp” từ trước rồi, vì mấy ông quan của mình cứ vợ nhất, vợ nhì, vợ ba, nên bà ra Luật Gia Đình. Theo tôi cái này là do giáo dục gia đình của bà rất kỹ chứ không phải vì vụ em bà đâu.
Ô. Võ Long Triều: Tôi có nghe nói rằng ông thân sinh của bà là Đại Sứ VNCH tại Mỹ, vào lúc Phật giáo được coi là bị đàn áp thì ông cụ từ chức để phản đối, vụ đó có không, thưa anh?
Ô. Cao Xuân Vỹ: Ông Trần Văn Chương từ chức không phải vụ đó, nhưng vì ông cảm thấy không làm đủ vai trò một người Đại Sứ tại Mỹ.

ĐS Trần Văn Chương (1956), cha bà bà Nhu Nguồn: Corbis
Ô. Võ Long Triều: Từ sau cuộc đảo chánh 1963 đến nay, có khi nào anh gặp lại bà Ngô Đình Nhu không?
Ô. Cao Xuân Vỹ: Hồi tôi qua Pháp, tôi có tới cái chỗ bây giờ tôi quên mất đi, bà có hai cái nhà do một người tư bản Pháp mua biếu bà, nó là cái Apartement.
Ô. Võ Long Triều: Anh có biết bà đang viết một cuốn hồi ký không?
Ô. Cao Xuân Vỹ: Hồi qua Pháp gặp bà, tôi biết bà có viết hồi ký.
Ô. Võ Long Triều: Bây giờ anh là chứng nhân lịch sử. Bữa nào xin gửi anh một số câu hỏi về chiến tranh Việt Nam. Tôi có một Show trên đài truyền hình nói về chiến tranh Việt Nam, thành ra thế nào tôi cũng hỏi anh vài câu. Hôm qua được tin bà Nhu, thấy cũng tội nghiệp cho bà.
Ô. Cao Xuân Vỹ: Bà Nhu theo tôi biết, tánh bà rất thẳng thắn, không nể nang ai hết, nên đôi khi chính nhiều bà làm việc chung với bà cũng không ưa bà, nhưng đó là cái bản tính của một người, vừa được giáo dục theo lễ giáo Á Đông, lại vừa hấp thụ nền giáo dục Tây phương nên như vậy.
Ô. Võ Long Triều: Theo anh, cách cư xử của bà Nhu với tư cách là em dâu của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và vợ của ông cố vấn Ngô Đình Nhu có cư xử đàng hoàng với những người cộng sự viên của chế độ hay là hơi kiêu căng?
Ô. Cao Xuân Vỹ: Mình phải nói trong lãnh vực nào. Chứ còn trong gia đình họ Ngô, thì là nề nếp phong kiến. Bà Nhu vẫn cư xử theo cá tính nề nếp gia đình phong kiến, lễ giáo chứ không cư xử theo kiểu Tây phương mà bà đã hấp thụ được, không hề hách dịch, kiêu căng.
Ô. Võ Long Triều: Khi bà Nhu đưa ra cái mốt mới của chiếc áo dài cổ hở, bị nhiều người chỉ trích dữ dội; theo tôi, đó cũng là cách làm đẹp của phụ nữ, nhưng còn anh, anh có tán thành không?
Ô. Cao Xuân Vỹ: Bà ưng tiến bộ mà. Bà cũng muốn ra vẻ ta đây là văn minh. Bà lấy cái kiểu áo Lemur. Tôi nói lại, bà Nhu tánh rất thẳng thắn, nên dễ mất lòng nhiều người, dễ mất lòng giữa các bà với nhau ấy, vì bà pha Tây vô. Còn các bà khác nhiều khi theo phong kiến.
Ô. Võ Long Triều: Tôi có người bạn là bà Lê Quang Kim, bà này từ Pháp về, hoạt động chung trong Hội Phụ Nữ của bà Nhu một thời gian, sau bà Kim rút ra và chỉ trích dữ lắm! Bà Nhu có một cô con gái là Ngô Đình Lệ Thủy, được cưng nhất, theo anh, cô này có đàng hoàng không, vì tôi thấy có một bài của một người bạn học cùng lớp với Lệ Thủy, rồi hoạt động Công giáo gì đó, mà gần đây có người gửi cho tôi cái email, rất kính nể Lệ Thủy, anh thấy sao?
Ô. Cao Xuân Vỹ: Cô Lệ Thủy là người được ông Nhu rất cưng, và giáo dục rất kỹ, cô rất lễ phép và theo phong tục Việt Nam.
Ô. Võ Long Triều: Cám ơn anh rất nhiều.
No comments:
Post a Comment