Popular Posts

Wednesday 3 August 2011

Hà Nội thời bao cấp


Đến Việt Nam lần đầu vào năm 1975 và có nhiều năm sinh sống ở Hà Nội, nhà xã hội học đồng thời cũng là nữ nhiếp ảnh gia người Thụy Điển Eva Lindskog đã ghi lại những hình ảnh đặc sắc về cuộc sống ở Thủ đô thời bao cấp.
Bằng chiếc máy ảnh chụp phim đen trắng Kodak, bà đã ghi lại một thời kỳ đầy kỷ niệm của Hà Nội với những đường phố tràn ngập xe đạp, những chuyến xe điện “quá tải” hay những gánh hàng cơm, hàng sửa xe đạp trên hè phố... Các bức ảnh chọn lọc của bà đang được trưng bày tại triển lãm ảnh “Còn & mất” tại số 39 Lý Quốc Sư (Hà Nội) từ ngày 18 đến 28/3.Dưới đây là một số bức ảnh của Eva Lindskog tại triển lãm (Đất Việt chụp lại):
Nhịp sống sôi động trên truyến Phố Hàng Gai vào khoảng năm 1987-88.
Bách hóa Tổng hợp tại ngã tư Hàng Bài - Tràng Tiền là khu bách hóa lớn nhất của Hà Nội thời bao cấp.
Học sinh tập trung chào cờ buổi sáng tại một ngôi trường ở Dịch Vọng, năm 1982.
Cơm bụi trên hè đường là một "bản sắc" của Hà Nội. Bức ảnh chụp đầu thập kỷ 1980.
Phố Tràng Tiền với dáng vẻ cổ kính, sang trọng và tràn đầy sức sống.
Mặt tiền của nhà triển lãm ở ngã tư Hàng Bài - Tràng Tiền.
Hàng chục người tập trung ở ngoài một tòa nhà ở Hà Nội để nhận giấy tờ xuất cảnh. 
Cảnh tấp nập và huyên náo trước chợ Đồng Xuân.
Phố Huế nhộp nhịp xe đạp trong cái thời mà xe máy là vật dụng cực kỳ xa xỉ.
Cảnh đeo bám quen thuộc trên những chiếc tàu điện, phương tiện công cộng rất quan trọng ở Hà Nội thập kỷ 1970 - 1980.
Sửa chữa xe đạp là nghề rất được trọng dụng ở Hà Nội thời bao cấp. 
Hồng Quân

YouTube - Ha Noi thoi bao cap

26 Tháng Ba 2009 – Hànội trước 1975 nghèo ...www.youtube.com/watch?v=7e02kKKg0_M

Những kỉ vật của một thời đáng nhớ

Nhà báo  Nguyễn Ngọc Tiến, phóng viên báo HàNộimới, là người sở hữu một bộ sưu tập khá độc đáo bởi nó gợi nhớ lại một thời quá khứ đầy ắp kỉ niệm vừa đi qua cách đây không xa. Đó là bộ sưu tập các kỉ vật của thời kì chiến tranh và bao cấp.
Với nhiều người, thời bao cấp (những năm trước Đổi Mới, 1986 - PV) gắn liền với khoảng thời gian thiếu thốn, vất vả. Đó là thời kì mà mọi hàng hóa đều được phân phối theo tiêu chuẩn, là thời kì của những buổi xếp hàng cùng tem phiếu, sổ gạo. Nhưng với Nguyễn Ngọc Tiến, cái thời ấy tuy có sự thiếu thốn về mặt vật chất nhưng dường như con người lại có một cuộc sống tinh thần đầy đủ hơn. Ấy là lúc mà mọi người sống với nhau giản dị, hài hòa chẳng có sự phân biệt giàu nghèo, ai cũng như ai cả. Có lẽ vì tiếc cái nghĩa tình một thời, nên anh đã cất công sưu tầm những đồ vật cũ kĩ của thời bao cấp vừa để thực hiện cái thú chơi của mình và cũng vừa để cho thế hệ sau có cơ hội được biết và hiểu thêm về một giai đoạn lịch sử của dân tộc.
 
Sổ đăng kí lương thực (thường gọi là "sổ gạo") của một hộ gia đình ở Hà Nội thời bao cấp.  

Chiếc quạt tai voi Liên Xô có đế làm bằng gang và cánh quạt làm bằng da thời bao cấp.
Bộ khay và chén uống trà làm từ xác máy bay thời chiến tranh.
Nhà báo Nguyễn Ngọc Tiến và chiếc cặp lồng phổ biến thời bao cấp.

Tem phiếu mua bánh mì thời bao cấp.

Tem phiếu mua chất đốt thời bao cấp.

 Gạt tàn làm từ xác máy bay thời chiến tranh.

Vỏ phích nước được gò từ xác máy bay thời chiến tranh.

Những hình ảnh và dòng chữ kỉ niệm khắc trên thân phích nước.


Sổ mua phụ tùng thời bao cấp.

T
rong bộ sưu tập hơn 3000 món đồ thời bao cấp, Nguyễn Ngọc Tiến tâm đắc nhất với bộ tem phiếu phân phối đủ các loại mặt hàng tại nhiều địa phương. Các loại tem phiếu phân phối vải, pin, đường, bánh mì… đều được anh lưu giữ cẩn thận. Có những tờ tem phiếu còn nguyên vẹn chưa kịp cắt chiếc nào mà theo anh Tiến, những tờ giấy đó thực sự rất hiếm. Thời bấy giờ ngoài tem phiếu ra còn có cả sổ gạo. Lương thực của cả gia đình đều trông vào một quyển sổ gạo nhỏ bằng bàn tay. Anh Tiến cho chúng tôi xem sổ gạo của một gia đình tại Hà Nội vào năm 1980 mà trên đó còn lưu lại nguyên vẹn những chữ kí, dấu đỏ nhận gạo từng tháng… Tất cả những mảnh giấy ố vàng ấy nay đã trở thành một phần không thể thiếu mỗi khi nhắc về lịch sử thời kì bao cấp của đất nước.
Ngoài tem phiếu, sổ gạo, anh Tiến còn lưu giữ được rất nhiều đồ vật riêng có của thời bao cấp như cái bát múc canh của tập thể, cái ca tráng men đựng nước, cặp lồng, bi đông, quạt tai voi, đồng hồ, radio… Nhưng đây mới chỉ là một phần trong bộ sưu tập của anh. Nhiều món đồ khác anh phải gửi nhà bạn bè vì không còn chỗ để.
Anh Tiến tự hào giới thiệu với chúng tôi chiếc quạt tai voi “đời đầu” làm bằng gang nặng trịch có cánh làm bằng da, rồi chiếc ca tráng men thời bao cấp nhà nào cũng có nhưng giờ đã trở nên rất hiếm, hay như chiếc thau nhôm có vành rộng mà đến giờ hầu như không còn thấy nữa.

A
nh Tiến cho biết bây giờ cũng có nhiều người làm lại những chiếc ca sắt tráng men giống thời bao cấp nhưng chất lượng không thể tốt bằng. Đặc biệt, trong bộ sưu tập cuuar anh Tiến còn có cả một hòn đá phía trên có khắc tên người. Hòn đá ấy trước đây thường được người ta dùng để đặt chỗ xếp hàng thay người mỗi khi một ai đó cùng một lúc phải xếp hàng chờ mua thực phẩm ở nhiều chỗ khác nhau. Anh Tiến bảo, viên đá ấy là sản phẩm đầy sáng tạo của con người thời bao cấp.
Trong nhà anh Tiến cũng dựng 2 chiếc xe đạp có biển số, đăng kí đàng hoàng. Trong căn nhà 3 tầng của anh, từ cầu thang cho tới mọi góc nhỏ, nơi nào cũng lỉnh kỉnh những đồ đạc gợi nhớ về những tháng năm của thời kì bao cấp.

T
rong quá trình sưu tầm đồ từ thời bao cấp, anh Nguyễn Ngọc Tiến đã phát hiện và trở nên đam mê những đồ vật trong chiến tranh. Đó là những đồ dùng bình thường được làm từ vỏ những chiếc máy bay, vỏ quả bom bi hay pháo sáng… Với anh Tiến, những đồ vật đó không chỉ là sự tận dụng vật liệu đơn thuần mà đó còn là dấu tích của một thời đạn bom được hồi sinh ngay trong những đồ vật giản dị hàng ngày. Và có lẽ vì thế mà mỗi khi Tết đến, anh vẫn cho đất vào trong bên trong vỏ một quả bom bi và gieo hạt cải để treo trang tr. Bởi theo anh, mấy ai có thể nghĩ rằng, bên trong vỏ quả bom bi đầy chết chóc ấy lại có những mầm non hiện thân cho sự sống đang vươn lên từng ngày. Rồi ngay cả những viên bi trong quả bom chưa kịp gây chết chóc ấy lại được người ta gỡ ra lắp vào ổ bi xe đạp giúp chiếc xe chạy trơn tru. Vì những ý nghĩa như vậy, Nguyễn Ngọc Tiến ngày càng đam mê với thú sưu tầm này. Sự biến hóa kì diệu của những vật dụng khốc liệt ngày nào khiến người ta nhớ về thời chiến theo một góc độ khác, bớt đau thương và bình tâm hơn.
Trong chiến tranh, xác những chiếc máy bay bị bắn hạ vô tình trở thành một thứ chất liệu phổ biến được sử dụng khá nhiều làm các dụng cụ sinh hoạt. Ngoài những đồ vật đơn giản như chiếc lược chải tóc, cái ca… nhờ đôi bàn tay khéo léo mà người ta còn tạo ra được cả những vật dụng khác như cả một bộ bàn ghế, va ly, điếu cày, gạt tàn, vỏ phích nước...

H
iện giờ trong căn phòng nhỏ của anh Tiến vẫn đang sử dụng bộ bàn ghế được làm từ xác máy bay. Đó là chiếc bàn nhỏ nhắn với bốn chiếc ghế làm thủ công, hình dáng đơn giản nhưng lại mang nhiều ý nghĩa với những người đã từng một thời khoác áo lính. Rồi cả chiếc va ly làm từ xác máy bay B52 bị bắn rơi ngay trên bầu trời Hà Nội đã từng theo người lính vào sinh ra tử giờ cũng đã trở thành một kỉ vật quý trong bộ sưu tập của anh. Đặc biệt hơn cả trong bộ sưu tập của anh Tiến là chiếc đàn nhị được dựng nên hoàn toàn từ vũ khí và các thiết bị trong chiến tranh. Theo anh Tiến, người tạo nên chiếc đàn này hẳn phải khéo tay và có tình yêu âm nhạc rất lớn, nhưng hơn hết đó phải là sản phẩm của một tâm hồn đẹp, lạc quan ngay cả khi cái chết cận kề. Cần của cây đàn làm từ thân cây nhiệt đới, một thiết bị thu âm do quân đội Mỹ ném xuống đường Trường Sơn để dò la tin tức bộ đội, bầu đàn làm bằng ống pháo sáng, tay kéo được làm từ râu cây nhiệt đới... Tất cả những bộ phận đó khi ghép lại tạo thành một cây đàn hoàn chỉnh mà mỗi lần những thanh âm da diết vang lên, mọi sự tàn khốc của cuộc chiến ngày nào dường như lắng lại.
Đã hơn một thập kỉ Nguyễn Ngọc Tiến miệt mài tìm về với những mảng kí ức xưa. Với nhiều người, quá khứ về thời bom đạn khốc liệt, thời xếp hàng đợi phân phối đã lùi xa nhưng với người đàn ông này, khoảng thời gian ấy luôn gợi nhắc nhiều điều mà cho đến thời nay, anh vẫn luôn kiếm tìm./.
Bài: Hà Anh - Ảnh: An Thành Đạt
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/1/12/Thoi_bao_cap.jpg/800px-Thoi_bao_cap.jpgMột căn phòng với những vật dụng tiêu biểu của thời bao cấphttp://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/5/58/Sandals_made_from_tires.jpg/401px-Sandals_made_from_tires.jpg
Những đôi dép cao su làm từ lốp xe ô tô cũ như thế này đã được sử dụng
phổ biến trong thời chiến tranh và thời bao cấp
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/5/5d/Vietnam1973.JPEG/800px-Vietnam1973.JPEGHình ảnh đường phố Hà Nội năm 1973, với xe đạp là phương tiện đi lại chủ yếuhttp://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/9/99/Tem_phi%E1%BA%BFu_th%E1%BB%9Di_bao_c%E1%BA%A5p.jpg/799px-Tem_phi%E1%BA%BFu_th%E1%BB%9Di_bao_c%E1%BA%A5p.jpgTem phiếu thời bao cấp
Thời bao cấp là tên gọi được sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai đoạn mà hầu hết sinh hoạt kinh tế diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, một đặc điểm của nền kinh tế theo chủ nghĩa cộng sản. Hàng hóa được nhà nước phân phối theo chế độ tem phiếu, hàng hóa không được mua bán tự do trên thị trường, không được phép vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa phương khác. Phân phối hàng hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Chế độ hộ khẩu được thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương thực, thực phẩm theo đầu người. Lương đôi khi cũng được trả bằng hiện vật.
Mặc dù chế độ bao cấp đã tồn tại ở miền Bắc từ trước năm 1975, song thời kỳ bao cấp thường được dùng để chỉ sinh hoạt kinh tế cả nước Việt Nam ở giai đoạn từ đầu năm 1976 đến cuối năm 1986, tức là trước thời kỳ Đổi mới. Đây được coi như một giai đoạn thất bại và tù đọng nhất của nền kinh tế Việt Nam trong thế kỷ 20.
Hà Nội - dấu vết thời bao cấp
Chủ Nhật, 18.7.2010 | 12:38 (GMT + 7)
Hà Nội, thời bao cấp đã qua từ lâu, có chăng chỉ còn trong tâm trí người già hoài cổ và những người trẻ lớn lên trong những năm tháng khó khăn nhất sau ngày đất nước thống nhất.
Nhưng giờ đây, người ta vẫn có thể cảm nhận được phần nào âm hưởng một thời bao cấp qua hình ảnh những khu tập thể, chung cư cũ kỹ, rêu mốc vẫn đang toạ lạc giữa những khu vực trung tâm của thủ đô như khu Kim Liên, Trung Tự, Giảng Võ, Thành Công, Hào Nam…

Những quán trà đá án ngữ ngay cầu thang mỗi đơn nguyên khu tập thể là kế sinh nhai của nhiều người trong khu nhà . Thiết kế của các khu tập thể cũ khá lạc hậu, phần chiếu nghỉ gần như bị bít kín, chỉ có một vài lỗ thông hơi nhỏ. Chuồng cọp (hay còn gọi là balô) là phần không thể thiếu ở các khu chung cư cũ.

Nó tăng thêm diện tích ở cho người dân và tăng thêm độ nhếch nhác cho khu nhà. Khoảng hở hiếm hoi giữa hai đơn nguyên của khu chung cư cũ. Hàng ngày, người đàn ông lớn tuổi này vẫn từ tầng 5 dắt xe đạp lên xuống vài lần mỗi khi có việc. Đây được coi như một bài tập thể dục hữu hiệu đối với người già.

Khoảng hở hiếm hoi giữa hai đơn nguyên của khu chung cư cũ.
Khoảng hở hiếm hoi giữa hai đơn nguyên của khu chung cư cũ.
Quán trà đá án ngữ ngay cầu thang.
Quán trà đá án ngữ ngay cầu thang.
Đây được coi như một bài tập thể dục hữu hiệu đối với người già.
Đây được coi như một bài tập thể dục hữu hiệu đối với người già.
Thiết kế của các khu tập thể cũ khá lạc hậu với các lỗ thông hơi nhỏ.
Thiết kế của các khu tập thể cũ khá lạc hậu với các lỗ thông hơi nhỏ.
Cửa các hộ hướng ra hành lang là lối đi chung.
Cửa các hộ hướng ra hành lang là lối đi chung.
Chuồng cọp phần không thể thiếu ở các khu chung cư cũ.
Chuồng cọp phần không thể thiếu ở các khu chung cư cũ.
Giang Huy

Hà Nội Thời Bao Cấp - Under the Subsidy Economy 1975-1986 by Michelle Phương Thảo (Vietnamese/English)

by Hương Văn - Scents of Literature on Saturday, April 17, 2010 at 5:34pm

Hà Nội Thời Bao Cấp (1975-1986)
MỘT THỜI ÐỂ QUÊN, MỘT ÐỜI ÐỂ NHỚ
Bài và hình ảnh: Michelle Phương Thảo

In the words of the Communist Manifesto, in the face of capitalism, “all that is solid melts into air”…In this sense, the Museum of Ethnology’s approach is indeed fitting: The command economy really was like an ethnic minority culture-peculiar, fragile, alien, and ultimately doomed to extinction.
All That Is Solid – The Boston Globe – by Matt Steinglass, September 10, 2006

Lời tuyên ngôn của Chủ Nghĩa Cộng Sản, đương đầu với chủ nghĩa tư bản: “tất cả những gì cứng rắn đều tiêu tan trong không khí”... Cùng một cách diễn đạt, phương pháp của Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học thật sự là thích hợp: Chế độ kinh tế kiểm soát cũng giống như một sắc dân thiểu số, văn hóa kỳ quặc, mong manh, xa lạ, và cuối cùng đã đi đến chỗ tận diệt.

Tất Cả Những Gì Cứng Rắn - Báo Boston Globe - Matt Steinglass, ngày 10 tháng 9, 2006
Michelle Phương Thảo chuyển dịch
(Kính tặng giáo sư Nguyễn Văn Huy, Giám Ðốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Việt Nam)

Vào mùa xuân 2005, vì muốn tìm hiểu về văn hóa nghệ thuật Việt Nam, tôi được giới thiệu với giáo sư Nguyễn Văn Huy, Giám Ðốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Việt Nam trong dịp trở về thăm thành phố Hà Nội, thủ đô văn hiến của Việt Nam. Mặc dầu là lần đầu tiên gặp nhau, giáo sư Nguyễn Văn Huy tiếp đón tôi rất nồng hậu. Giáo sư để dành suốt buổi chiều hôm đó đưa tôi đi tham quan cuộc triển lãm chủ đề Một Trăm Năm Ðám Cưới Việt Nam 1905-2005 được trình bày tại viện bảo tàng.

Trong câu chuyện tâm tình trước khi đi tham quan, giáo sư bất chợt hỏi tôi:
- Chắc cháu ra đi từ lúc còn nhỏ tuổi, cháu rời Việt Nam từ năm nào?
- Thưa giáo sư, cháu vượt biên trên một chiếc thuyền nhỏ vào đầu năm 1982, lúc cháu 13 tuổi.
Giáo sư nhẩm tính vài giây, rồi nói:
- Ðúng là quãng thời gian đó. Chúng tôi đang thực hiện một chương trình triển lãm rất đặc biệt, giải thích nguyên nhân tại sao cháu phải ra đi.
Tôi tò mò hỏi:
- Thưa giáo sư, chương trình về chủ đề gì ạ?
- Cuộc Sống Hà Nội Thời Bao Cấp.
Tôi chưa hiểu ý giáo sư, hỏi tiếp:
- Tại sao liên quan đến việc ra đi của cháu?
- Vì viện bảo tàng chúng tôi đang mở cuộc vận động thu thập tất cả các hiện vật và hình ảnh về cuộc sống người dân trong thời gian 1975-1986. Tuy chủ đề là Cuộc Sống Hà Nội Thời Bao Cấp, nhưng chúng tôi thu thập tài liệu từ người dân trên toàn quốc. Suốt hơn một thập niên đó, người dân cả nước đều sống dưới chế độ kinh tế “bao cấp”, tất cả các mặt hàng đều được mua bán qua hệ thống phân phối tem phiếu.
Tôi đáp lời giáo sư:
- Cháu hiểu rồi. Cháu còn nhớ rõ lắm. Cháu chỉ không biết tên đặt cho thời gian đó là “thời bao cấp” thôi. Cháu thường xuyên giúp mẹ cháu đi xếp hàng từ sáng sớm tinh mơ để mua gạo, thực phẩm, và đồ dùng cho gia đình. Hồi đó, cả nước đều đói khổ.
Tôi im lặng một vài giây, nghi ngờ:
- Có thật là chú sẽ thực hiện được cuộc triển lãm với chủ đề “thời bao cấp”?
Không biết có hiểu ý câu hỏi tế nhị của tôi không, giáo sư điềm nhiên trả lời:
- Không những thu thập hiện vật, tài liệu, và hình ảnh, chúng tôi còn mời các nhân chứng chia sẻ kinh nghiệm và cảm tưởng của họ về cuộc sống thời kỳ này. Có nhiều câu chuyện vui buồn… cười ra nước mắt.
Với ánh mắt rạng rỡ, giáo sư kể:
- Ví dụ như tôi vừa mới nghe câu chuyện của một bà này, lâu lắm bà ta không có xà phòng dùng để tắm. Một hôm nọ, bà đến nhà tắm tập thể. Tình cờ người đàn bà đến trước bà ta, chắc là được người thân nước ngoài tiếp tế, nên đã dùng xà phòng Camay. Lúc bà này bước vào, mùi xà phòng Camay vẫn còn phảng phất thơm nức cả căn buồng tắm nhỏ. Bà ta kể rằng, chỉ vì ngửi được mùi xà phòng Camay, suốt ngày hôm đó, bà ta cảm thấy… sướng lâng lâng cả người.
Vừa kể giáo sư vừa từ từ đưa hai bàn tay lên cao vẫy vẫy diễn tả sự… sung sướng, làm tôi bật cười:
- Hồi đó đúng là tội nghiệp, vì quá thiếu thốn cực khổ, nên con người rất dễ dàng… sung sướng.
Giáo sư hồn nhiên cười lớn:
- Ðúng thế. Có được một chút gì là sung sướng ngay.
Tôi láu táu nói theo:
- Dạ vâng. Có gì sướng nấy. Ðụng đâu sướng đó.
Tôi chợt im bặt, hơi đỏ mặt vì ngượng cho sự láu táu của mình. Giáo sư đứng dậy, bảo tôi:
- Cháu theo tôi sang bên này.
Tôi vội vàng bước theo giáo sư xuống cầu thang, ra ngoài. Chúng tôi đi đến một căn phòng họp khá rộng rãi và khang trang. Giáo sư vừa bước vào phòng, vừa nói:
- Chúng tôi tổ chức các buổi phỏng vấn người dân về thời bao cấp ở đây.
Bước nhanh đến một tờ giấy trắng khổ lớn, chi chít đầy chữ viết tay dán trên tường, giáo sư chỉ tay vào tờ giấy:
- Chúng tôi hỏi họ các câu hỏi giống nhau về thời bao cấp, và xếp hạng các câu trả lời theo thứ tự được chọn từ nhiều nhất đến ít nhất, chẳng hạn như câu hỏi này.
Giáo sư đọc lớn:
- Ðiều gì làm bạn sung sướng nhất?
Tôi nhìn vào trang giấy, đọc hàng chữ đầu tiên:
- Lãnh sổ gạo!
Tôi đọc tiếp hàng chữ thứ hai:
- Sắm xe đạp…
Ra vẻ bí mật, giáo sư lật trang giấy cho tôi đọc tiếp tờ thứ hai:
- Ðiều gì làm bạn đau khổ nhất? Mất sổ gạo, mất xe đạp…
Tôi cười xòa, kết luận:
- Ranh giới giữa sung sướng nhất và đau khổ nhất chỉ là cái bao tử.
Giáo sư cười theo nhưng không nói gì thêm, có vẻ đồng tình với nhận định của tôi. Tôi chợt ngậm ngùi, thầm nghĩ câu chuyện thời bao cấp đúng là… cười ra nước mắt và cảm phục giáo sư, tự nhủ: “Tài thật, làm sao giáo sư có thể thực hiện được chủ đề triển lãm đầy mâu thuẫn này nhỉ!” Tôi hỏi giáo sư:
- Khi nào giáo sư bắt đầu cuộc triển lãm này.
- Dự định giữa tháng Sáu năm nay. Cháu về xem nhé.
- Cháu sẽ cố gắng sắp xếp về thăm giáo sư và xem triển lãm.
Vài giờ đồng hồ sau đó, giáo sư tiếp tục đưa tôi đi tham quan cuộc triển lãm Một Trăm Năm Ðám Cưới Việt Nam 1905-2005.
Trở về Mỹ, tôi viết bài “Giáo Sư Nguyễn Văn Huy, Một Ðời Cho Dân Tộc” và cho đăng trên tạp chí TransViệt Imex số báo tháng 7/8-2006, một phần để tôn vinh tài lãnh đạo và sự hy sinh vì dân tộc của giáo sư, một phần để giới thiệu Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học với du khách có dịp về thăm Việt Nam. Vì e ngại bài viết có thể cản trở dự án của giáo sư, tôi không nhắc gì đến dự định triển lãm chủ đề “thời bao cấp” sắp xảy ra nay mai của viện bảo tàng.
***
Tôi sắp xếp trở về lại Hà Nội đúng dịp viện bảo tàng vừa tưng bừng khai trương cuộc triển lãm “Cuộc Sống Hà Nội Thời Bao Cấp 1975-1986”. Giáo sư lộ vẻ vui mừng khi gặp lại tôi. Ngay sau khi niềm nở mời tôi vào phòng làm việc, giáo sư ngỏ lời khen bài viết của tôi về giáo sư và viện bảo tàng. Một cô sinh viên xinh xắn và trẻ trung nhanh nhẹn trao cho tôi một tập tài liệu thật dầy. Tôi lật ra xem qua, thì ra giáo sư đã cho sưu tập đầy đủ tất cả các bài báo mà các ký giả phóng viên Việt Nam và ngoại quốc đã viết về buổi lễ khai mạc chương trình triển lãm “Cuộc Sống Hà Nội Thời Bao Cấp 1975-1986”. Tôi có phần cảm động, giáo sư thật chu đáo! Và một lần nữa, mặc dầu công việc hết sức bận rộn, giáo sư đã dành trọn buổi chiều đón tiếp và đích thân đưa tôi đi tham quan cuộc triển lãm độc đáo này.

Chúng tôi bước vào khu vực đầu tiên nơi trưng bày đầy đủ hiện vật và hình ảnh trung thực cốt lõi nhất về “thời bao cấp”. Tại một “cửa hàng thực phẩm” được tái tạo với mô hình kích thước thật, hình ảnh một vài người dân đang sắp hàng chờ mua gạo, xen kẽ trong hàng là vài cục gạch, chiếc nón lá, chiếc nón cối, những hiện vật này “thay mặt” cho một người cũng đang sắp hàng chờ đến phiên mình. Trên bức tường bên trái ghi hàng chữ “mặt nghệch như mất sổ gạo”. Tôi cười bâng quơ nhớ đến buổi nói chuyện với giáo sư trong dịp gặp gỡ trước. Phần trình bày “cửa hàng thực phẩm” được sắp xếp sạch sẽ ngăn nắp, hơi khác xa thực tế. Tôi bồi hồi nhớ lại hình ảnh của chính tôi, một cô bé gầy nhom xanh xao vừa mới lên mười, mím môi nắm chặt cuốn sổ gạo và tem phiếu trong tay, bị đưa lên đẩy xuống giữa một rừng người đang chen chúc cố gắng thành lập các dãy hàng trật tự theo lời ra lệnh quát tháo của các cô cán bộ bán hàng. Cảnh tượng ngày nào cũng như ngày nào, thật hỗn độn, ồn ào, náo nhiệt, vẫn còn in đậm trong ký ức ngày thơ, không thể nào tôi quên được.

Chúng tôi dừng lại bên cạnh một chiếc hộp gương đựng một cục đá khắc tên “Mai Hai” và số “127”. Cục gạch này được ông Mai Hai dùng xếp hàng mua gạo thay ông và số 127 là số sổ gạo của gia đình ông. Một cửa hàng đặc biệt bán hàng “Tết” cũng được tái tạo. Danh sách hàng “Tết” là các món được xem như là “xa xí phẩm” thời bấy giờ: mứt, mì chính, hạt tiêu, thuốc lá, chè hương, vân vân. Các món “xa xí phẩm” này quý đến độ trên tường cửa hàng Tết ghi lời tâm sự “vô tư” của một công chức nhà nước: “Mua được gói hàng Tết làm tôi thấy nhẹ cả người”.

Giáo sư đưa tôi vào khu trưng bày kế tiếp chủ đề “Mô hình phân phối của nhà nước dưới thời bao cấp”. Bảng “Mô Hình Phân Phối” ghi rõ nguyên văn như sau:
“Thời bao cấp, hầu hết mọi nhu yếu phẩm đến với người dân đều thông qua hệ thống mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán. Tất cả các mặt hàng từ nhỏ đến lớn đều phân phối bằng các loại tem phiếu hoặc sổ mua lương thực… do Nhà Nước cấp phát, những mặt hàng thiết yếu nhất chỉ cung cấp theo định chuẩn. Nhân dân có tiêu chuẩn riêng và ở mức thấp nhất; tiêu chuẩn của cán bộ, công nhân, viên chức tùy thuộc vào vị trí công tác và đặc thù nghề nghiệp của mỗi người. Cán bộ cao cấp có cửa hàng phục vụ riêng tại phố Tông Ðản, trung cấp – tại phố Nhà Thờ, Văn Hổ, Ðặng Dung và Kim Liên; cán bộ, công nhân viên chức bình thường và nhân dân mua ở các cửa hàng rải rác trong thành phố. Người ta phải tốn rất nhiều thời gian xếp hàng nhưng rất nhiều khi cũng không mua được định mức vốn đã rất thấp, vì tình trạng khan hiếm hàng có nguyên nhân trực tiếp từ một nền kinh tế trì trệ, rối nạn cửa quyền, gian lận, móc ngoặc giữa một số nhân viên mậu dịch với “con phe”. Cũng do vậy, không hiếm trường hợp cực chẳng đã, phải bán rẻ tem phiếu, mua hàng chợ đen giấu giếm với giá “cắt cổ”, cao hơn giá mậu dịch nhiều lần.”

Giáo sư đi vội về phía một bức tường trưng bày một bảng lớn chủ đề “Bảng định lượng thực phẩm, cán bộ, công nhân, viên chức Nhà Nước được mua theo tiêu chuẩn tem phiếu”. Giáo sư tự hào giải thích:
- Cháu có biết đây là tài liệu mà nhà nước đã bảo mật hơn năm mươi năm nay, lần đầu tiên được mang ra trưng bày trước công chúng. Chế độ phân phối này dựa theo chính sách của nhà nước cộng sản Sô Viết đã được áp dụng từ năm 1954, ngay sau thời kỳ kháng chiến chống Pháp cho các nhu cầu thực phẩm như gạo và vải. Sau năm 1975, chế độ được áp dụng rộng rãi trên toàn quốc. Tài liệu được tuyệt đối bảo mật là bản định lượng này, trong đó ghi rõ tất cả các đối tượng chức vụ của chính phủ và tiêu chuẩn phân phối dành cho họ và người dân thường.
Tôi thích thú nghiên cứu kỹ bảng phân phối và so sánh: ưu tiên hạng nhất, đối tượng 1, bộ trưởng, chuyên viên 9 và tương đương, mức lương 192 đồng VN, tem phiếu hạng A, khẩu phần được mua mỗi tháng là thịt 4.2 kg, cá 4 kg, nước mắm 2 lít; ưu tiên 7 là đối tượng thấp nhất dành cho các công nhân viên chức cán sự, mức lương 50-59 đồng VN, tem phiếu hạng E, khẩu phần được mua mỗi tháng là thịt 0.4 kg, cá 0.5 kg, nước mắm 0.5 lít. Nếu tính theo tỷ số thì số lương và các khẩu phần của đối tượng 1 cao hơn gấp 3-4 lần so với đối tượng công nhân hạng 7, và gấp 10 lần so sánh với đối tượng người dân thường. Tôi bày tỏ nhận xét riêng với giáo sư:
- Thật là một chế độ kinh tế siêu tinh vi và vô cùng kỳ thị. Cháu thiết tưởng là theo lý thuyết kinh tế của Carl Marx dưới chế độ cộng sản, mọi người đều được phân chia đồng đều chứ. Ðây có thể là một đề tài nghiên cứu thú vị và hữu ích cho các học sinh đang theo học bậc tiến sĩ về kinh tế học hay xã hội học tại Mỹ.

Trong một chiếc tủ kính, một số tem phiếu mua sữa, thực phẩm, và chất đốt còn sót lại được trưng bày. Tôi chỉ vào hai mẫu tem phiếu hạng A:
- Theo như bản phân phối thì đây là tem phiếu của gia đình một vị bộ trưởng hay học giả chuyên viên cao cấp nào đấy. Sao giáo sư sưu tầm được các tem phiếu này hay vậy?
Giáo sư giải thích:
- Ðây là tem phiếu của chính gia đình tôi. Bố tôi nguyên là Bộ Trưởng Bộ Văn Hóa đầu tiên của Nhà Nước Việt Nam. Khi ông cụ đột ngột mất, gia đình tôi vẫn còn tem phiếu nhưng chúng tôi không có tiền để mua hàng. Vì thế mà gia đình vẫn còn giữ cho đến ngày hôm nay.
Tôi không mấy ngạc nhiên với sự việc này vì trong cuộc triển lãm “Một Trăm Năm Ðám Cưới Việt Nam” vừa qua, giáo sư Nguyễn Văn Huy cũng đã cho trưng bày hình ảnh đám cưới thật hoành tráng của thân phụ Nguyễn Văn Huyên và thân mẫu Vi Kim Ngọc. Hình ảnh đám cưới của cặp trai tài gái sắc này đại diện cho những đám cưới Việt Nam trước thời gian kháng chiến chống Pháp. Ý tưởng chia sẻ hiện vật và hình ảnh của chính gia đình mình vào các cuộc triển lãm lịch sử của vị giám đốc đương nhiệm thật là độc đáo và làm cho khách thưởng lãm khâm phục kiến thức thâm sâu và sự khiêm tốn hiếm quý của giáo sư hơn.

Chúng tôi bước sang phần trình bày của một căn hộ chung cư chỉ rộng khoảng chừng 48-50 mét vuông. Ðây là một căn hộ trên lầu hai dựa theo lời kể của một gia đình cán bộ bác sĩ trung lưu ở Hà Nội. Tôi được giáo sư cho biết bốn thế hệ gần hai mươi người sống chung với nhau trong căn hộ với chỉ một chiếc giường dành cho ông bà cố, còn tất cả thành viên khác đều ngủ trên sàn nhà, và chiếc buồng tắm duy nhất được biến thành một chuồng nuôi lợn. Tiếng lợn kêu inh ỏi được phát ra từ chiếc loa gắn trong khu buồng tắm làm tôi rùng mình, mường tượng đến cuộc sống chung đụng hằng ngày của các thành viên trong gia đình này.
Vì đời sống quá ư cơ cực và đói khổ đó, hầu hết người dân đều phải làm hai ba công việc mới mong đủ sống. Trong một góc triển lãm trưng bày các dụng cụ cho nghề may vá và bơm mực vào viết bi, hai nghề “tay trái” này rất thông dụng và đã “cứu vớt đời sống” cho các giáo viên thời bấy giờ.

Sang khu trưng bày với chủ đề “Ước Mơ”, một chiếc ti vi, một chiếc quạt máy, một bé búp bê, một chiếc áo khoác, một đôi giày. Các hiện vật được đặt trang trọng trong khung kính, đó là những “ước mơ” của người dân thời bao cấp. Tuy nhiên, ghi bên trên các hiện vật là dòng chữ “mong ước lớn nhất của chúng tôi vẫn chỉ là miếng cơm manh áo”. Dòng chữ này đã khẳng định rằng đối với đại đa số quần chúng, những hiện vật kể trên đã từng là những “ước mơ” không bao giờ trở thành hiện thực. Tôi còn thấy nhiều ‘ước mơ” khác được trưng bày trong khu này: một bàn ủi, một nồi cơm điện, một lò gas, một cục xà phòng Camay đặt bên cạnh một lọ mì chính. Giáo sư kể tôi nghe, lọ mì chính này là khẩu phần cho hai tháng của các anh bộ đội. “Mì chính là một gia vị quý hiếm. Vì vậy, người ta thường ví mì chính với những gì ít thấy. Ðó cũng là nguồn gốc của từ mì chính cảnh.” Giáo sư kể một câu chuyện khác về cục xà phòng Camay. Một anh nọ được tặng cục xà phòng Camay, anh ta không dám dùng để tắm, mà mỗi khi đi gặp người yêu, anh “kín đáo” cắt một miếng nhỏ mang theo trong người để có được mùi thơm xà phòng quyến rũ sang trọng này. Ðộc đáo hơn cả là hình ảnh một quả trứng gà được trưng bày trong một hộp kính, “bữa ăn với chỉ một quả trứng cũng đủ là niềm hãnh diện” .

Giáo sư vẫy tôi đến bên cạnh một chiếc xe đạp màu đỏ mới tinh và kể:
- Câu chuyện về chiếc xe đạp này thì hi hữu lắm nhưng hoàn toàn có thật. Thời đó, xe đạp là cả một gia tài to lớn. Gia đình bà này dành dụm nhiều năm mới tậu được chiếc xe đạp này. Ngày đầu tiên mang xe đạp về nhà, cậu cháu trai vô tình ngã vào xe làm trầy một vết sơn, bà ta tức quá không ăn được suốt một ngày, rồi quyết định bỏ chiếc xe đạp quý vào hộp, khoá vào trong tủ suốt hơn hai mươi năm.
Tôi không nhịn được một chuỗi cười dài, nước mắt chực sẵn như muốn tuôn trào ra. Ôi! Quê hương Việt Nam tội nghiệp của tôi, đúng là một chuyện thật khó tin.

Chúng tôi vào khu trưng bày chủ đề “Ðời sống văn nghệ”. Với cuộc sống kinh tế khắc nghiệt đến như vậy, tôi thầm đoán rằng kiến thức văn hoá và nghệ thuật sáng tạo của người dân Hà Nội thời bao cấp chắn hẳn là rất ư nghèo nàn. Khi con người suốt ngày bị ám ảnh bởi sự hành hạ gào thét của bao tử, mơ ước có được một bữa cơm với “một quả trứng gà”, thì làm sao có tâm trí nào mà sáng tác được. Vả lại, nếu muốn sáng tác cũng không có khả năng mua sắm được các vật liệu cần thiết để thực hiện. Hiện vật trưng bày là một máy chiếu phim cũ kỹ, vài hình ảnh các minh tinh đạo diễn miền Bắc và quảng cáo các phim về cuộc nội chiến, một căn nhà làm bằng những mảnh gỗ vụn mà người bố làm quà cho con trai, ba búp bê được may bằng những miếng vải thừa mà người mẹ may tặng cho con gái, và đặc biệt là một tấm thiệp chúc mừng năm mới của danh hoạ sĩ Bùi Xuân Phái vẽ nhân dịp Tết 1975. Một hộp kính lớn trưng bày tấm hình của ông Lê Văn Ba, nguyên Trưởng Ban Biên Tập Báo Tiền Phong, nguyên bản kiểm điểm viết tay của ông, lá thư khiển trách và phê bình của Bộ Văn Hóa về sự kiện bài thơ “Mùa Xuân Nhớ Bác” của tác giả Xuân Khải đăng trên báo Tiền Phong vào ngày 25/3/1986. Viện bảo tàng triển lãm lời trích từ bài thơ nổi tiếng này sau đây:

Lẽ nào tuổi trẻ hôm nay thua thiệt
Có học hành lại phải sống cầu an
Phải thu mình xin hai chữ
“Bình yên” …
Có ai thấu chăng
Và ai phải sửa?

Giáo sư cho tôi biết nhà thơ Xuân Khải đã bị cô lập và tác phẩm của ông không được xuất bản trong suốt 20 năm sau khi viết bài thơ này. Mặc dầu không được đọc toàn bộ nội dung bài thơ “Mùa Xuân Nhớ Bác”, tôi hiểu ra đây là lý do chính yếu cho sự nghèo nàn về đời sống văn hóa nghệ thuật của người dân Việt Nam sống dưới thời bao cấp. Bởi vì ngoài sự thiếu thốn cùng cực về mặt kinh tế, về mặt văn hóa tư tưởng, các văn nghệ sĩ và giới trí thức học giả đã không được tự do sáng tác, đặc biệt các bài viết phản ánh trung thực về đời sống dưới thời bao cấp đều bị kiểm duyệt và không được đăng tải. Một phần nào, nhà nước Việt Nam cũng đã xác nhận sự kiểm duyệt khắt khe này qua lời ghi “một cuộc đấu tranh âm thầm giữa cái bảo thủ cố hữu và cái mới mẻ mong manh đang diễn ra” .

Cuộc triển lãm kết thúc bằng một tấm panel lớn trưng bày những bức ảnh về các buổi gặp gỡ giữa các vị lãnh đạo Việt Nam với đối tác quốc tế, chính trị và kinh tế. Bức ảnh lớn nhất ghi lại buổi ký kết giao thương giữa Việt Nam và Mỹ về việc Việt Nam gia nhập WTO.

Tôi thầm cảm phục giáo sư và viện bảo tàng đã thực hiện cuộc triển lãm chủ đề hiện thực này. Tất cả các hiện vật và hình ảnh dầu rất đơn giản và thô sơ nhưng đều được trưng bày công phu và vì thế, đã phản ánh thành công cuộc sống người Hà Nội nói riêng và toàn dân Việt Nam nói chung trong suốt hơn một thập niên ngay sau cuộc chiến. Giáo sư giới thiệu tôi với hai tiến sĩ trẻ người Mỹ thuộc viện bảo tàng quốc gia Smithsonian, đã có mặt tại Hà Nội để cố vấn viện bảo tàng thực hiện cuộc triển lãm lịch sử này. Giáo sư Nguyễn Văn Huy đã từng đến thăm viện bảo tàng quốc gia Smithsonian tại Washington DC và xem cuộc triển lãm về cuộc sống người Mỹ trong thời kỳ phân chia chủng tộc giữa người da trắng và người da đen. Giáo sư cũng đã được sự giúp đỡ của tổng thống Pháp, Jacques Chirac trong những ngày đầu xây dựng viện bảo tàng dân tộc học, đồng thời sự hợp tác các viện bảo tàng quốc tế khác như Paris’s Museum of Man, Amsterdam’s Tropical Museum, và New York’s Museum of Natural History.

Với sự hỗ trợ cùng kiến thức và kinh nghiệm quý báu đó, cuộc triển lãm chủ đề hiện thực phê phán “thời bao cấp” mang đến cho du khách thưởng lãm một thông điệp mới mẻ và táo bạo. Trong khi tất cả các viện bảo tàng và cơ quan giáo dục khác vẫn tiếp tục đổ lỗi cho người Mỹ và người Pháp về sự nghèo nàn kinh tế của Việt Nam hậu chiến tranh, cuộc triển lãm đã chính thức phê phán chủ trương kinh tế bao cấp của nhà nước, khẳng định rằng đây là một chế độ “chậm chạp, vô hiệu nghiệm” đã làm trì trệ trí tuệ và khả năng sáng tạo của người dân. Tuy nhiên, viện bảo tàng kết thúc cuộc triển lãm bằng sự ghi nhận công lao của nhà nước Việt Nam qua quyết định hủy bỏ chế độ “bao cấp” do chính họ áp dụng suốt hơn mười năm và “Ðổi Mới” kinh tế. Viện bảo tàng cũng bày tỏ niềm lạc quan tin tưởng cho tương lai kinh tế tốt đẹp hơn của Việt Nam.

Cuộc triển lãm đã thành công mỹ mãn. Giáo sư hãnh diện cho tôi biết từ ngày khai trương cuộc triển lãm, viện bảo tàng đã đón tiếp hơn 900 du khách mỗi ngày, gấp đôi số khách thường ngày của viện bảo tàng.
Trước khi chia tay, tôi hỏi giáo sư:
- Giáo sư có nguyện vọng và kế hoạch gì trong thời gian sắp tới?
- Tôi mong sao có dịp đưa chương trình triển lãm này sang Mỹ.
Tôi trả lời:
- Nếu mang sang Mỹ triển lãm được thì hay biết mấy. Ðây sẽ là một bài học rất hữu ích cho người Mỹ, vì đây không chỉ là cuộc sống của người dân Việt Nam dưới thời bao cấp mà thôi, mà là cuộc sống của hàng triệu triệu người dân Nga sô trước khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, và chắc chắn cuộc sống này vẫn còn đang tiếp diễn tại Bắc Hàn. Có lẽ người Mỹ sẽ kinh ngạc và thông cảm hơn cho nỗi đau phải rời bỏ quê hương của người Việt tị nạn.
Tôi nói tiếp:
- Mặc dầu nơi cháu sinh sống có rất nhiều người Việt Nam nhưng cho đến bây giờ vẫn chưa có một viện bảo tàng hay một trung tâm văn hóa nghệ thuật Việt Nam quy mô nào cả. Cháu không những mong muốn mang được cuộc triển lãm này mà sau này có thể xin phép giáo sư mang luôn các căn nhà dân tộc ngoài kia của viện bảo tàng sang Mỹ để cho các cháu thế hệ thứ hai đến tìm hiểu và hãnh diện về nguồn gốc và văn hóa của cha ông mình.
Giáo sư cười xòa, rồi nghiêm túc nói với tôi:
- Suốt hơn mười năm qua, tôi đã trải qua nhiều gian nan để thành lập viện bảo tàng dân tộc học này. Tuy nhiên, tôi tin rằng điều gì cũng có thể làm được nếu mình có chí hướng và quyết tâm.
Tôi đồng ý với giáo sư và đọc một tràng dài lời văn bất hủ của học giả Nguyễn Bá Học:
- Vâng. “Ðường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông. Xưa nay những đấng anh hùng đã làm nên những việc gian nan không ai làm nổi. Ðó cũng là nhờ có gan mạo hiểm, ở đời không biết cái khó là gì...”

Tôi hứa với giáo sư là sẽ viết bài về cuộc triển lãm “thời bao cấp” ngay sau khi trở về Mỹ. Nhưng từ ngày thực hiện Việt Art Center, tôi phải tạm ngưng tạp chí TransViệt Imex để bảo tồn và phát triển Việt Art Center. Hôm nay sau tám tháng khai trương Việt Art Center, với sự bảo trợ của viện đại học tiểu bang California – Fullerton và công ty bảo hiểm Farmers Insurance, Việt Art Center được chọn để hân hạnh trưng bày cuộc triển lãm chủ đề “Exit Saigon, Entering Little Saigon” của viện bảo tàng quốc gia Smithsonian. Tôi “mở lại hồ sơ cũ”, đọc tập tài liệu do giáo sư Nguyễn Văn Huy giao cho tôi, và viết bài tường trình về cuộc triển lãm “thời bao cấp” hầu người Mỹ và giới trẻ Việt Nam thuộc thế hệ thứ hai có thể hiểu thêm nguyên do “Exit Saigon” của người Việt tỵ nạn chúng tôi. Ngồi đọc gần 100 bài viết của các phóng viên nhà báo Việt Nam, hầu hết ca ngợi công ơn của nhà nước Việt Nam đã nhanh chóng thực hiện “Ðổi Mới”, đưa người dân Việt Nam ra khỏi đói khổ và nghèo nàn. Tuy nhiên, không có một nhà báo nào nhắc đến lời mà giáo sư đã nói với tôi trong buổi gặp gỡ đầu tiên, đó là “thời bao cấp” là nguyên nhân mà tôi phải rời xa cha mẹ ra đi tìm một tương lai tươi sáng hơn trên một chiếc thuyền bé nhỏ mong manh ngày nào.

Thời bao cấp và sự kiểm soát tư tưởng gắt gao đã khiến cho hàng trăm hàng ngàn người Việt Nam phải mạo hiểm liều mình ra đi mà theo thống kê, ước chừng 500,000 người đã bỏ mình trên biển cả, hay chỉ một nửa số người ra đi là còn sống đến được bến bờ tự do no ấm. Dầu sao, nếu tiếp tục luận bàn về lịch sử bi thương của dân tộc Việt Nam thì tôi sẽ không thể nào kết thúc bài viết này được. Vả lại, từ lâu tôi đã cố quên đi tuổi thơ sống dưới thời bao cấp, một thời đáng để quên, mặc dầu mãi mãi tôi nhớ rằng tôi là người Việt Nam, một đời cần để nhớ. Ước mơ của tôi giống như ước mơ của người dân Hà Nội khi còn đang sống trong thời bao cấp, cũng giống như ước mơ giản dị ngàn đời của người dân Việt Nam, “luôn cầu mong cho con cái khỏe mạnh, hạnh phúc. Những ước mơ đó chưa bao giờ thay đổi.
” (April 2007)
Professor Nguyễn Văn Huy & Michelle Phương Thảo (2005)
HÀ NỘI UNDER THE SUBSIDY ECONOMY 1975-1986A TIME TO FORGET, A LIFE TO REMEMBER