''Tôi không thể tiếp tục thỏa hiệp với nỗi sợ hãi và sự hèn nhát của bản thân mình. Biết đến nhiều tấm gương dấn thân trong lịch sử và đọc nhiều về tư tưởng của họ, sẽ rất là hổ thẹn nếu tôi im lặng, bàng quan trước những bất công đang rõ ràng hiện hữu''. Sinh viên: NGUYỄN ANH TUẤN.
Popular Posts
-
Bs Thú y Nguyễn Thượng Chánh Chuyện thịt mèo, thịt chó là một vấn đề nhạy cảm và cấm kỵ trong xã hội Âu Mỹ. Do Thái giáo và đạo Hồi giáo...
-
Thủ đô Hà-Nội, ngày 17 tháng 04 năm 2011. Thư Ngỏ : Về việc cả nước đều bị “Tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng” lường gạt”. Kính ...
-
PHƯƠNG THUỐC KHAI THÔNG TÂM MẠCH: 1. Nước Chanh 1 cup 2. Nước Gừng 1 cup 3. Nước Tỏi ...
-
Xe gắn máy tại miền Nam trước 75 Có thể nói xe đạp và xe gắn máy là phương tiện di chuyển chiếm đa số tại miền Nam trước 1975 và c...
-
Kính thưa quý anh, Đa số cựu SVSQ chúng ta đã đến tuổi sưng nhiếp hộ tuyến (prostate). Năm ngoái tôi cũng bị bệnh này, bác sĩ chuyên...
-
Gõ Tiếng Việt Có Dấu Online từ Mọi Nơi và Mọi Máy PC hay Apple/Mac Bạn không cần phải cài đặt bất cứ một phần mềm nào hay điều chỉnh chi ...
-
http://www.angelfire.com/zine2/risingsun/Literature/XeGanMay.html Có thể nói xe đạp và xe gắn máy là phương tiện di chuyển chiếm...
-
1. Truyện ngắn 2. Truyện dài 3. Bài viết 4. Lịch sử 5. Cổ tích 6. Kiếm Hiệp 7. Trung Hoa 8. Tiế...
-
Trực tiếp Video Trừ Quỷ ở Việt Nam M ộ t thính gi ả đã trao cho chúng tôi đĩa CD's đ ượ c tr ự c ti ế p ghi l ạ i qua Video v ề n...
-
Paris ngày 03/5/2011, Kính gửi ông Đức Thọ LÊ Trước hết xin cám ơn ông rất nhiều về thần dược trị bệnh tiểu đường là ĐẬU BẮP Xin ông ph...
Tuesday 26 July 2011
Thiền Vipassana trong nhà tù
Thiền Vipassana trong nhà tù
WORLD's SECOND RICHEST MAN
There’s wisdom in this message and we can gain from it. God bless…
|
Monday 25 July 2011
Sài Gòn, ngày 12-06-2011) Bài hát "Đáp Lời Sông Núi", nhạc & lời: Trúc Hồ, được hát tại cuộc Biểu tình chống Tàu cộng xâm lược Việt Nam
Sài Gòn, ngày 12-06-2011) Bài hát "Đáp Lời Sông Núi", nhạc & lời: Trúc Hồ, được hát tại cuộc Biểu tình chống Tàu cộng xâm lược Việt Nam, với sự phụ họa của đồng bào Việt Nam trên toàn thế giới. Hợp ca: Asia 58.
Cộng đồng Người Việt tại PARIS biểu tình chống Trungcộng và CSVN
Cong Dong Nguoi Viet tai PARIS_18-06-2011.flv
Sunday 24 July 2011
Saturday 23 July 2011
Nằm trên đường rày tầu để chữa bệnh
Bất chấp nguy hiểm, hàng loạt người dân Nam Duong nằm la liệt trên đường rày tầu hỏa để chữa bệnh.
Nam Duong không chỉ là đất nước nổi tiếng với các thủ thuật liên quan đến rắn, hủ tục trừ tà mà còn nổi tiếng với nhiều hình thức chữa bệnh kỳ quái.
Mới đây các phóng viên ngoại quốc đã ghi lại được những hình ảnh về phương thức chữa bệnh vô cùng đặc biệt: “Nằm trên đường rày tầu hỏa, bách bệnh tan biến”.
Người dân địa phương tin rằng dòng điện trên đường rày có thể chữa bách bệnh
Vào một buổi sáng đẹp trời, khô ráo, đông đảo người dân tại khu Sunda (phía tây Nam Duong) tập trung tới gần địa điểm có tầu hỏa đi qua. Người già, trẻ em, thanh niên, thiếu nữ… đủ mọi thành phần xã hội cùng thoải mái nằm sát cạnh nhau. Họ tin rằng dòng điện trên đường rày có thể giúp mình chữa trị tất cả các căn bệnh mà không tốn kém chi phí.
Mặc dù hiệu quả của cách chữa bệnh truyền thống này chưa được kiểm chứng nhưng người dân vẫn tin tưởng và thực hiện theo phong trào đều đặn theo từng mùa.
Một số hình ảnh về hình thức chữa bệnh kỳ lạ này:
Bất chấp nguy hiểm rình rập, họ vô tư nằm trên đường rày giữa tiết trời oi ả
Người dân địa phương rủ nhau cùng chữa bệnh theo lời tương truyền xa xưa
Hình thức chữa bệnh không tốn kém chi phí rất được ưa chuộng
===============
Những phương pháp chữa bệnh kỳ quái
Bị mệt mỏi? Hãy thử dùng rắn xem. Còn đau dạ dày? Ăn ếch sống sẽ hết. Với một số người, tủ thuốc không phải là nơi duy nhất họ có thể đến để giải thoát khỏi bệnh tật.
1. Phương pháp chữa bệnh bằng "cá rỉa" tại một khu nghỉ suối nước nóng ở Hakone Kowakien, tây Tokyo, Nhật Bản. "Cá bác sỹ" sẽ loại bỏ da chết ở chân và chữa một số bệnh liên quan đến da.
2. Liz Cohen được rắn mát xa tại một spa ở làng Talmey El'Azar, miền bắc Israel.
3. Một người mắc bệnh hen suyễn ở Bombay nuốt một con cá sống để chữa bệnh. Người ta đã nhét một ít thuốc lá vào miệng con cá sông nhỏ này rồi sau đó cho người bệnh nuốt xuống cổ họng. Một số người Ấn Độ tin rằng đây là cách chữa bệnh hen suyễn nhanh nhất.
4. Thưởng thức phương pháp chữa bệnh bằng bùn tại một nhà điều dưỡng ở Trung Quốc.
5. Một bệnh nhân được chữa đốt sống cổ bằng phương pháp truyền thống của Trung Quốc tại một bệnh viện thuộc tỉnh Giang Tô.
6. Jiang Musheng, 66 tuổi, ở tỉnh Giang Tô, miền đông Trung Quốc, bị đau dạ dày và ho nặng 20 năm trước. Cho đến một ngày có người tên là Yang Dingcai đã chỉ cho ông cách chữa bệnh bằng ăn ếch sống.
7. Thầy lang Pan Rerngprasarn ở tỉnh Buriram, Cambodia, chữa bệnh bằng cách: Chôn bệnh nhân trong cát nóng ngập đến tận cổ. Theo thầy lang, cách này có thể chữa bách bệnh, từ ung thư tới tâm thần.
8. Haj Mohamed el-Minyawi, ở Cairo, cho rằng có thể chữa mọi đau đớn, bệnh tật của con người, từ thận, ruột thừa và thậm chí là ung thư chỉ bằng cách cho ong châm.
9. Một liệu pháp chăm sóc sức khỏe cho bà bầu ở Lima, Peru, nhằm kích thích phát triển trí não của em bé trong bụng mẹ.
10. Một phương pháp chữa bệnh của người Trung Hoa, với một quả óc chó trên mắt, rồi đốt lá ngải cứu ở bên tai.
11. Một loại bùn đen chữa bệnh ở khu nghỉ dưỡng thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc.
12. Một phương pháp chữa bệnh lạ khác của người Trung Quốc ở tỉnh Sơn Đông: cho bọ cạp chết "yên nghỉ" trên mặt.
13. Một bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp giác ở bệnh viện châm cứu và bấm huyệt tại Thượng Hải. Người ta cho rằng có thể lấy được nhiệt ra khỏi cơ thể bằng những chiếc chén được làm nóng lên rồi cho úp ngược như thế này.
Friday 22 July 2011
Mắt của trái tim.
Xilin Diweng có một bài hát: "Because you love me". Lời ca viết rằng: "Nếu anh không nhìn thấy, em sẽ là mắt anh, khi anh không nói, em sẽ là tiếng anh"...
Lời hát đã khiến tôi nhớ đến đôi vợ chồng mù ở trong thôn bà ngoại tôi.
Đôi vợ chồng mù trong thôn bà ngoại tôi năm nay đã sắp sửa tám mươi tuổi, đã có một đống con cháu. Nghe bà ngoại kể lại, khi cưới nhau, chồng ngồi xe bò đi đón vợ. Tuy cô dâu chú rể đều không nhìn thấy mầu sắc, song chú rể vẫn sai người cuốn đầy lụa điều lên đầu bò và xe bò. Đón cô dâu về nhà, chú rể dắt tay vợ đi rà mò từ nhà trên xuống nhà bếp, rà mò khắp lượt các ngóc ngách trong nhà. Viêc khó khăn hơn cả là múc nước giếng ở cạnh nhà , lần nào cũng thế, hai người dắt nhau đi, vợ sờ thấy cây trụ gỗ trồng ở cạnh giếng, một tay ôm chặt cây, còn tay kia níu chặt tay chồng. Chồng quỳ trên sàn giếng thả gầu xuống múc, kéo nước lên. Trong thôn có người đến giúp, hai người thường từ chối, họ bảo:"Các anh giúp được một giờ, không giúp được chúng tôi một đời". Cứ như thế, hai vợ chổng luôn luôn tay dắt taynhau gánh nước cho đến khi đứa con đầu có thể gánh nổi một gánh nước. Dân làng cảm thấy lạ lùng, đã có những trai gái trẻ trong thôn đã từng vì đất trơn trượt chân ngã xuống giếng, nhưng hai vợ chồng chưa bao giờ như vậy. Càng lạ lùng hơn là chuyện, mặc dù giữa đám đông người đang cùng nhau nói chuyện hỉ hỉ hả hả, hai người mù vẫn có thể nhờ vào tiếng hít thở dài dài tìm ra nhau.
Bởi không nhìn thấy, dù mưa dù gió, người ta thường trông thấy hình ảnh hai người dắt tay nhau. Dù làm việc gì, họ cũng tay trong tay. Tay trong tay, hình tượng để nhiều nhà văn viết đi viết lại ấy, đã xuất hiện suốt nửa thế kỷ ở trong cái thôn nhỏ bé không ai biết đến này.
Ông chồng là tay thổi kèn trong ban nhạc của thôn quê, thường đến các đám cưới của người khác thổi những bài: "Trăm con chim nhìn Phượng Hoàng", "Niềm vui đầy nhà"..măc dù đi thổi kèn ở đâu, ông cũng chỉ có một yêu cầu, cho người vợ mù cùng đi. Khi chồng thổi kèn, vợ ngồi bên ông lặng lẽ nghe, dường như những điệu nhạc vui nhộn này đều là thổi cho bà. Trên khuôn mặt người vợ mù thường hay đỏ ửng lên, khiến ai nấy cũng cảm thấy người đàn bà mù đang ngồi lặng lẽ kia xinh đẹp biết chừng nào.
Về sau này, hai vợ chồng đều đã già, không bao giờ đi ra ngoài nữa, chỉ quanh quẩn trồng nhiều hoa trong sân nhà mình, đều là giống hoa tươi rực rỡ, đến kỳ hoa nở, cả sân đỏ rực. Một lần ông sơ ý bị ngã què chân. Trong những ngày ông nằm ở bệnh viện, bà bốn ngày liền không ăn một hạt cơm vào bụng, bà bảo, không sờ thấy bàn tay quen thuộc kia, bà không còn hồn vía nào nữa.
Con cái của ông bà đã từng vui đùa hỏi bố mẹ: nếu ông trời giành cho bố mẹ một cơ hội, liệu bố mẹ có định dùng mắt nhìn nhau không?
Bà mẹ mù trả lời: "Các con nhìn người bằng mắt, bố mẹ nhìn người bằng trái tim, tim sáng hơn mắt, thật hơn mắt".
Ông bố mù bảo: "Dắt tay nhau một đời, có bao nhiêu đường vân trong lòng bàn tay mẹ con, đã đều in vào trái tim bố. Bố chưa bao giờ trông thấy một người đẹp nhất, trong trái tim bố, thì mẹ con là người đẹp hơn cả. Cần mắt để làm gì, mắt là thứ tham lam nhất trần đời, nhìn cái gì cũng chia ra tốt, xấu, nhìn cái gì cũng muốn có cái đó!"
bạn hãy nhớ lấy câu chuyện này nhé !
Khi nào bạn thấy không có đủ thời gian trong 24 tiếng để xử lý mọi việc lớn nhỏ,
bạn hãy nhớ lấy câu chuyện này nhé !
Một giáo sư triết học lúc lên lớp đã đưa cho nhóm sinh viên xem một cái keo không rồi đặt vào đấy những quả banh đánh golf.
- "Thưa GS, đã đầy rồi !", nhóm SV đồng thanh trả lời
Vị GS mới lấy một hộp bi vả đổ vào keo.
các viên bi đã trám vào chổ trống giữa các quả banh.
Vị GS lại hỏi đám học trò của ông thế cái keo đã đầy chưa?
Cả nhóm lại trả lời đồng loạt : VÂNG, đã đầy rồi !
Sau đó GS đã lấy một bịch cát đổ tiếp vào trong keo.
Dĩ nhiên là cát đã bít hết khoảng trống trong keo và GS lại hỏi đám SV cái keo đã đầy chưa?
Tất cả đều trả lời là keo đã đầy .
Tức thì GS chế vào keo hai tách cà phê.
Và dĩ nhiên là cà phê đã choán kín khoảng trống giữa các hạt cát !
Các Sinh Viên đồng thanh cười to !
Đợi chúng cười xong, Giáo Sư mới nói :
"Tôi muốn ví cái keo như cuộc đời của các em
Những quả banh golf tượng trưng cho những điều quan trọng với bản thân các em như gia đình, con cái, sức khỏe.
Cuộc đời của các em có thể nói là đầy đủ nếu các em mất mọi thứ nhưng vẫn giữ được những yếu tố quan trọng này.
Cuộc đời của các em có thể nói là đầy đủ nếu các em mất mọi thứ nhưng vẫn giữ được những yếu tố quan trọng này.
Những viên bi là những thứ thiết yếu khác như công việc làm, nhà cửa, xe cộ vv...
Cát tượng trưng cho những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống.
Nếu tôi đổ cát vào keo đầu tiên hết thì sẽ không có chổ cho các viên bi hay quả banh golf..
Nếu tôi đổ cát vào keo đầu tiên hết thì sẽ không có chổ cho các viên bi hay quả banh golf..
Trong cuộc sống cũng vậy.
Nếu chúng ta cống hiến hết năng lực và thời gian cho những việc nhỏ thì chúng ta sẽ không bao giờ có chổ cho những điều thực sự quan trọng.
Nếu chúng ta cống hiến hết năng lực và thời gian cho những việc nhỏ thì chúng ta sẽ không bao giờ có chổ cho những điều thực sự quan trọng.
HÃY CHÚ Ý ĐẾN NHỮNG ĐIỀU THIẾT YẾU TẠO NÊN HẠNH PHÚC CHO TA
Hãy nô đùa với con cái (hoặc cháu chắt !!),
hãy đi khám sức khỏe ít nhất mỗi năm 2 lần,
hãy đi giải trí cuối tuần với chồng hoặc vợ của mình, hãy cùng tập một môn thể thao.
Hãy giúp người bạn đời của mình rửa chén, hoặc sửa vòi nước trong bồn tắm vv...
Các em hảy đặt vào keo đầu tiên hết là những quả banh golf , tức là tập trung năng lực và thời gian cho những điều quan trọng nhất trong đời người: gia đình, con cái, sức khỏe cúa các em!
Hãy thiết lập các ưu tiên, những gì còn lại chỉ toàn là cát mà thôi !
Một trong các Sinh Viên giơ tay lên hỏi:
Một trong các Sinh Viên giơ tay lên hỏi:
" Thưa Giáo Sư, thế tách cà phê tượng trưng cho điều gì ạ ?"
Giáo Sư mỉm cười và đáp:
" Câu hỏi hay đấy !
Đó là để chứng minh cho thấy ngay cả khi cuộc sống của các em đã hoàn toàn đầy đủ nhưng vẫn còn chổ cho một tách cà phê nhâm nhi cùng một người bạn !
Giáo Sư mỉm cười và đáp:
" Câu hỏi hay đấy !
Đó là để chứng minh cho thấy ngay cả khi cuộc sống của các em đã hoàn toàn đầy đủ nhưng vẫn còn chổ cho một tách cà phê nhâm nhi cùng một người bạn !
NGƯỜI QUÉT CHỢ
Một câu chuyện thật cảm động và súc-tích:
"Nhớ dâng trà cúng sư thúc và dì Linh nghe con?" thầy nhắc chú tiểu khi
thấy chú sửa soạn lên chánh điện để cúng ngọ.
"Bạch thầy, con nhớ," chú đáp.
Đó là câu mà thầy cứ nhắc chú mỗi ngày trước mỗi thời kinh. Chú chẳng
biết sư thúc là ai, dì Linh là ai. Trên chiếc bàn thờ nhỏ đặt cạnh bàn
Tổ, chú chỉ thấy hai cái bài vị được viết bằng chữ Hán chứ chẳng có hình
ảnh gì cả. Vì thầy nhắc mãi nên chú không lúc nào quên, vậy mà thầy cứ
nhắc. Nghe nhắc hoài, ban đầu chú hơi bực mình, nhưng riết rồi cũng
quen. Và khi chú rót trà cúng cho hai người đó, chú cũng làm như một cái
máy chứ không suy nghĩ gì. Chùa chỉ có một thầy một trò, nên thầy thương
chú lắm và chú cũng quí kính thầy vừa như cha mẹ, vừa như thầy, và thỉnh
thoảng như một người bạn đạo. Chú không có tên thế tục. Chú chẳng hiểu
lý do vì sao. Có lẽ vì chú sống ở chùa từ nhỏ nên thầy đã không đặt tên
thế tục cho chú mà chỉ đặt cho chú một pháp danh là Thanh Thị. Chú lớn
lên ở trong chùa, quen với tên gọi mà thầy đặt cho, chẳng thắc mắc gì.
Nhưng đến khi được thầy dạy cho học chữ Hán, chú mới hiểu được cái tên
đọc nghe như tên con gái của mình lại có một ý nghĩa kỳ cục, không được
thanh nhã cho lắm. Nó có vẻ như được đặt ra để đánh dấu một kỷ niệm nào
đó của thầy, hoặc cho chính chú. Chú băn khoăn suy nghĩ mãi về ý nghĩa
của cái tên mà mình đeo mang. Nhân lúc cùng thầy nhổ cỏ sau vườn chùa,
chú hỏi:
"Bạch thầy, tại sao thầy đặt tên con là Thanh Thị?"
"Vì thầy thích đặt như vậy," thầy chú thản nhiên trả lời.
"Lâu nay con tưởng rằng chữ thị có nghĩa là đây, như vầy, giống như chữ
thị trong như thị, đích thị hoặc chữ thị như trong biểu thị, thị hiện...
nhưng mới hôm qua, thầy viết tên con bằng chữ thị có nghĩa là chợ. Con
không rõ là tên con sao lại có cái nghĩa không được hay. Xin thầy giải
thích cho con."
Thầy nghiêm giọng nói:
"Chỉ là tên gọi thôi, có gì mà phải bận tâm, nhổ cỏ đi."
Chú cúi xuống nhổ cỏ tiếp, nhưng được một lúc, chú lại hỏi:
"Con biết đó chỉ là tên gọi thôi, nhưng tên gọi cũng phải nói lên một
cái gì, một ý nghĩa gì chứ."
"Thì chợ cũng là một cái gì, một ý nghĩa gì rồi đó," thầy đáp.
"Con thấy chợ chỉ có ý nghĩa là dơ, ồn ào, phức tạp... toàn là xấu không
à. Con không tìm ra được ý nghĩa nào hay đẹp ở trong nó. Khi thầy đặt
tên con, chắc chắn là thầy có nghĩ đến một ý tưởng hay một hình ảnh gì
đó về cái chợ, phải không, bạch thầy?"
"Nhiều chuyện quá," thầy nói, "nhổ cỏ đi."
Chú im lặng nhổ cỏ, không dám hỏi nữa. Nhưng trong đầu óc chú bắt đầu
nẩy ra những suy tưởng, những phán đoán về sự đặt tên của thầy. Chú
nghĩ, năm nay chú đã mười sáu tuổi rồi, có thể nói là chú đủ trưởng
thành để nghe thầy kể về lai lịch của chú. Lâu nay mỗi lần chú hỏi đến
vấn đề đó, thầy chỉ nói là chú chưa trưởng thành, chưa đến lúc cần biết.
Nhưng dù thầy chẳng nói ra, chú cũng không đến nỗi ngu độn để không biết
rằng chú là một đứa bé mồ côi. Ai cũng có cha mẹ, riêng chú không có.
Cái thực tế đó làm gì thầy che giấu được. Nhưng tại sao lại đặt tên là
Thị, có nghĩa là chợ? Có lẽ... có lẽ cha hay mẹ của chú là người bán
hàng ngoài chợ, hoặc là người chủ chợ. Nhưng ba mẹ chú đâu mà để cho
thầy phải đặt tên? Cũng có thể mẹ chú đi ngang chợ thì sinh ra chú.
Không, nếu mẹ chú sinh ra chú ở chợ thì cũng đem về nhà, và chú vẫn còn
người mẹ đó chứ chú đâu có mồ côi để cho thầy phải đặt tên! Hay là...
hay là thầy lượm được chú ngoài chợ, đem về chùa nuôi cho đến ngày hôm
nay? Chính vì kỷ niệm đó mà thầy đặt tên cho chú là Thị (chợ)?
"Bạch thầy..." chú không ngăn được nỗi háo hức tìm hiểu thân phận mình,
lại mở miệng hỏi.
"Gì nữa đây?" thầy không nhìn chú.
"Có phải... có phải con là đứa con rơi thầy lượm ở ngoài chợ đem về hay
không?"
Thầy ngưng tay nhổ cỏ. Im lặng một lúc, thầy tiếp tục nhổ, vừa nói:
"Nhổ cỏ."
Đến chiều, sau giờ ăn cháo, thầy gọi chú cùng dạo sân với thầy. Hai thầy
trò tản bộ cho đến vườn sau, nơi có hai ngôi mộ mà thỉnh thoảng chú thấy
thầy ra thắp hương. Một cái mộ thì chú biết là của sư thúc chú, còn cái
còn lại chú chẳng biết của ai và cũng không để ý lắm.
"Con đã dâng trà cho sư thúc và dì Linh lúc công phu chiều rồi hả?" thầy
hỏi.
"Bạch thầy, rồi," chú trả lời như máy.
Thầy nhặt mấy chiếc lá nằm trên mộ sư thúc, nhổ vài bụi cỏ mới mọc quanh
hai ngôi mộ. Rồi thầy bắt đầu kể chuyện cho chú nghe.
*
Thầy Hải Chấn đang ngồi đọc sách thì Hải Thanh, sư đệ của thầy, bước
vào, mặt buồn dàu dàu. Hải Chấn hỏi:
"Gì mà sư đệ có vẻ rầu lo vậy?"
Hải Thanh buồn bã đứng nhìn ra cửa sổ một lúc rồi nói:
"Đệ... đã phạm giới..." Hải Thanh nói đến đó thì rơi nước mắt.
Hải Chấn kéo tay sư đệ ngồi xuống, vỗ về:
"Có trầm trọng lắm không? Đệ đã sám hối chưa?"
"Đã sám hối. Nhưng đó là cho tự tâm. Không giải quyết gì được cho hoàn
cảnh."
"Chuyện gì vậy? Nói đi, để xem huynh có thể giúp gì cho đệ không."
"Huynh đừng trách mắng đệ nghe..."
"Phạm tội thì sám hối; huynh trách mắng có thay đổi gì được đâu! Nói đi,
đừng chất chứa trong lòng," Hải Chấn nói với giọng đầy cảm thương.
Hải Thanh đưa hai tay ôm lấy đầu, mặt gục xuống bàn, nói:
"Cô ấy đã có mang."
Hải Chấn sửng sốt một lúc, rồi thở dài, hỏi:
"Cô ấy là ai vậy?"
"Sư huynh không biết đâu. Cô ấy không hề đến chùa mình."
"Vậy làm sao đệ quen để đến nỗi..."
"Thôi, huynh hỏi làm gì chuyện đó cho mệt. Bây giờ, đệ chỉ hỏi huynh một
điều là đệ phải làm sao đây?"
Hải Chấn nhíu mày, thấy khó xử. Theo luật, Hải Thanh đã phạm một trong
các tội Ba-la-di, tức những trọng giới mà đương sự bị coi như mất cả
giới thể, không còn là tỳ-kheo thanh tịnh nữa, không thể chữa được
nữa—như cây dừa, cây cau, đã chặt đi khúc đầu (đoạn đầu) thì không thể
mọc lại tàu lá mới. Đã tới nước đó thì Hải Chấn biết góp ý với Hải Thanh
điều gì nữa. Hải Chấn thở dài nói:
"Huynh cũng chẳng biết phải góp ý với đệ làm sao. Chuyện không đơn giản
đâu. Đệ phải nói rõ sự việc may ra..."
Hải Thanh ngập ngừng lúc lâu rồi kể:
"Cũng vì cái hạnh quét chợ mà đệ vướng phải nghịch cảnh này. Huynh cũng
biết mà, mỗi sáng đệ quét từ sân ra tới chợ, mặc ai cười ai chê, đệ quét
thì cứ quét, vừa quét vừa quán niệm về sự cấu bẩn của thế gian và thanh
tịnh của niết bàn... năm này qua năm nọ, mưa hay nắng, đệ cũng không bỏ
ngày nào. Thế rồi... cô ấy lưu ý đến đệ. Và... một ngày nọ, đệ sa ngã."
"Buồn thay cho đệ. Cô ấy bán ngoài chợ à?"
"Không, cô chỉ đi ngang chợ thôi."
"Vậy bây giờ gia đình cô ấy đã biết rằng chính đệ đã làm... cái chuyện
gì đó chưa?"
"Chưa, cô ấy không nói ra là ai. Nhưng... có lẽ có ngày họ cũng biết. Mà
họ có biết hay không thì... mình cũng phải tự liệu."
"Tự liệu?"
"Ý đệ nói là mình phải giải quyết vấn đề đó bằng cách đến nói chuyện với
gia đình cô ấy, xin hỏi cưới cô ấy, hoặc là... đệ cùng cô ấy trốn đi xa
để khỏi mang tai tiếng cho gia đình cô ấy và cho chùa nữa."
"Nghĩa là đệ sẽ hoàn tục?"
"Chứ biết sao bây giờ. Huynh có cách gì hay hơn không?"
Hải Chấn ứa nước mắt, thương sư đệ mình gặp nghịch duyên đến phải bỏ
đường tu, nhưng chẳng biết phải giúp bằng cách nào. Hải Chấn ngồi lặng
thinh. Một chặp, Hải Chấn nói:
"Huynh chẳng biết cách nào hết, mong đệ tha thứ cho sự chậm lụt của
huynh. Huynh nghĩ chắc phải làm theo một trong hai cách mà đệ nêu ra
thôi. Mà cho dù chọn giải pháp nào, huynh cũng xin lưu ý đệ một điều
rằng đệ nên giải bỏ hình thức tăng sĩ trước khi..."
"Đệ hiểu."
Hai huynh đệ im lặng, mỗi người một dòng suy tưởng.
Hải Chấn nhớ lại bao kỷ niệm mà thầy cùng Hải Thanh trải qua nơi ngôi
chùa này từ thuở còn để chóp đến nay. Hải Thanh thông minh, nhanh nhẹn
mà lại siêng năng nên cái gì cũng vượt qua mặt sư huynh. Nhưng đến khi
sư phụ sắp viên tịch, sư phụ lại giao trọng trách trụ trì cho Hải Chấn.
Lúc đó Hải Chấn đã không nhận vì cho rằng sư đệ vượt trội hơn mình quá
nhiều. Hải Thanh cũng không chịu nhận chức trụ trì, còn sư phụ thì nhất
quyết phải giao chức ấy cho Hải Chấn dù Hải Chấn học hành chậm lụt. Rốt
cuộc Hải Chấn phải nhận. Giờ ra đi, sư phụ không nói gì nhiều ngoài việc
khuyên răn hai huynh đệ nương nhau tu tập, và những lời cuối cùng của sư
phụ đều nhắm vào Hải Thanh, cảnh giác Hải Thanh là không nên chú trọng
vào sở kiến sở văn mà bỏ quên phần tu tập. Sau khi sư phụ mất, Hải Thanh
thức tỉnh, nỗ lực hành trì, không bao giờ chểnh mảng. Rồi một ngày đó,
Hải Thanh bỗng phát nguyện quét luôn cả chợ thay vì chỉ quét sân chùa.
Hải Chấn không ngăn cản chi hạnh nguyện của sư đệ mình vì nghĩ rằng đó
cũng là hạnh tốt thôi. Hải Thanh cho rằng hình ảnh người tu sĩ hiền lành
nhẫn nại có mặt nơi phố chợ đông người sẽ cảm hóa và gây được tín tâm
cho nhiều người. Ngoài ra, quét chợ cũng là một cách tu luyện cho tâm
được định tĩnh ngay giữa chốn náo động. Không ngờ, chính hạnh nguyện cao
đẹp đó lại đốn ngã Hải Thanh trong một nghịch duyên đau xót.
Hải Thanh không ôn lại kỷ niệm xưa mà chỉ ưu tư vấn đề xảy ra trước mắt.
Hải Thanh nhớ đến Thùy Linh, cô gái đã có mang với mình. Cô ấy rất đẹp
và là một tiểu thư con của quan huyện. Với sự thông minh vốn có, lại
thêm sự giúp đỡ bày mưu của cô nữ tì, cô ấy đã tạo đủ điều kiện để lôi
kéo Hải Thanh ngã vào vòng tay mình. Từ những phút đầu Hải Thanh đã biết
mình rơi vào lưới tình, nếu không thức tỉnh quay lại ngay với thiền môn
thì khó bề giữ gìn được đạo hạnh của mình, nhưng bóng sắc lộng lẫy kiêu
sa của nàng đã không để cho Hải Thanh chùn bước mà còn kéo thầy lậm sâu
thêm vào cơn men ái dục. Bây giờ chuyện đã lỡ rồi, không cưỡng lại được
nữa. Hải Thanh muốn rủ Thùy Linh cùng bỏ huyện này trốn đi với mình qua
xứ khác sinh sống và cũng để tránh tiếng cho cả đôi bên, nhưng Thùy Linh
không dám. Nàng đã ở lại để rồi không che dấu được cái thai càng lúc
càng lớn. Nàng đã bị cha đánh đập, mắng chửi dữ dội. Hải Thanh nghe nữ
tì nói lại như vậy nhưng chẳng biết phải làm sao. Nhiều lúc Hải Thanh
muốn lẻn vào tư dinh quan huyện để cứu nàng ra khỏi đó, nhưng lính gác
canh phòng nghiêm mhặt, không cách gì vào được. Dù đã từng xem thế sự
như một giấc mộng hư huyễn, trước tình cảnh đau xót mà Thùy Linh phải
hứng chịu, Hải Thanh không khỏi nghe tan nát trong lòng.
Đêm đó, hai huynh đệ ngồi thức trắng bên bàn sách. Đến lúc mờ sáng, Hải
Thanh mới rời phòng sách vào phòng riêng, lấy khăn chít lấy đầu để che
dấu cái đầu tròn tu sĩ của mình, thay đổi y phục như một người thế tục
rồi từ giã Hải Chấn mà đi. Hải Chấn hỏi:
"Đệ đi đâu vậy?"
"Đến tư dinh quan huyện nói chuyện thẳng với cha cô ấy."
"Sao huynh thấy ái ngại cho chuyến đi này của đệ quá. Thấy có gì không
ổn. Đệ liệu có thể thuyết phục được cha mẹ cô ấy không?"
Hải Thanh không đáp, chỉ nhún vai rồi đi. Hải Chấn níu lại, dúi vào bọc
vải của sư đệ một túi tiền nhỏ:
"Đó là tiền riêng của huynh, không phải của chùa đâu, đừng ngại. Đệ mang
theo để có gì..."
"Cám ơn huynh. Đệ đi đây. Nếu có tin tốt đẹp, đệ sẽ cùng Thùy Linh ghé
thăm huynh trước khi rời xứ này."
Và Hải Thanh đi luôn, không trở lại. Hải Chấn bồn chồn lo lắng suốt cả
ngày và đêm hôm đó. Sáng hôm sau, khi Hải Chấn ra vườn thì thấy xác Hải
Thanh nằm ở trước sân chùa, thân thể tím bầm vì bị đánh đập đến tắt thở.
Hải Chấn đến khiếu nại với quan huyện nhưng huyện đường đóng cửa, lính
gác xua thầy về. Thầy đành ngậm ngùi chôn xác sư đệ sau vườn chùa. Nghĩ
rằng có làm to chuyện lên thì sư đệ nhắm mắt cũng không được yên.
Hai tháng sau, Thùy Linh sinh hạ một bé trai. Nửa đêm nàng lẻn trốn khỏi
dinh, mang con ra chợ, ngồi nơi sạp hàng mà ôn lại chuyện xưa khi nàng
đi ngang đây và bắt gặp nhà sư quét chợ lạ kỳ. Nàng ngồi giữa trời sương
cho đến sáng thì chết, tay vẫn còn ôm đứa bé sơ sinh đang khóc.
Quan huyện lâu nay cố che dấu chuyện con gái mình nhưng nay, cái chết
của Thùy Linh ngay giữa chợ đã làm cho câu chuyện nhanh chóng truyền đi;
ông bực dọc và căm giận đến độ sai lính treo bảng thông báo rằng ông đã
từ đứa con trắc nết phá hoại gia phong, rằng ông không chịu trách nhiệm
về cái chết của Thùy Linh cũng như không chấp nhận đứa con của người
quét chợ. Thông cáo của ông có vẻ như ngầm phán rằng đứa bé phải chịu
chết giữa chợ đời, không ai được phép cứu nó. Vì uy quyền hống hách cũng
như sự giận dữ của quan huyện, không ai dám mang đứa bé sơ sinh về nuôi.
Người ta gỡ đứa bé khỏi vòng tay lạnh giá và cứng đờ của mẹ nó rồi đặt
nó nằm trong một chiếc nôi, để giữa chợ để chờ kẻ nào động lòng trắc ẩn
đến mang nó đi. Những người đàn bà bán hàng ngoài chợ đã chăm lo sữa cho
đứa bé suốt ngày đó, nhưng cũng không ai chịu nhận đứa bé về. Còn xác
Thùy Linh thì được quấn sơ sài bằng một cái chiếu, đặt ở gần đó. Đến
chiều tối thì chuyện đến tai Hải Chấn. Thầy liền tức tốc ra chợ, ôm
chiếc nôi nhỏ mang về chùa. Còn xác Thùy Linh, thầy bảo những người
phật-tử bán hàng ở chợ giúp đem về chùa chôn. Ấy vậy mà quan huyện không
dám động đến Hải Chấn vì cả nể đức hạnh và uy tín của thầy. Đứa bé được
yên thân sống và lớn lên trong cửa chùa.
*
Nước mắt ràn rụa trên hai gò má bầu bĩnh, chú tiểu Thanh Thị quì xuống
chân thầy:
"Tạ ơn thầy cứu sống và nuôi dưỡng con."
Thầy đỡ chú dậy, nói tiếp:
"Sư thúc của con có linh vị thờ trong chùa mà thầy thường nhắc con rót
trà dâng cúng chính là Hải Thanh cha của con đó. Sư thúc với thầy tu học
với nhau từ nhỏ nên ngoài tình đạo bạn còn coi nhau như anh em ruột.
Chuyện của sư thúc khiến thầy đau lòng quá mà không biết giúp bằng cách
nào. Nuôi dưỡng con chỉ là một chuyện nhỏ để biểu lộ sự mến tiếc của
thầy đối với sư thúc thôi. Huống chi, làm sao thầy có thể bỏ mặc một đứa
trẻ kêu khóc không người đoái hoài..."
Chú tiểu Thanh Thị bây giờ đã hiểu vì sao chú có cái tên lạ kỳ đó: Thanh
là tên của cha chú còn Thị chính là chợ, là nơi ghi lại kỷ niệm chua xót
đầu đời của cha chú, mẹ chú, và cả chú nữa.
"Vậy quan huyện hiện nay chính là ông ngoại của con hở, bạch thầy?"
"Không. Ông và phu nhân đều đã qua đời. Quan huyện hiện nay là người mới
được bổ nhiệm."
"Vậy những người ở ngoài chợ... đều biết chuyện của con hở thầy?"
"Mười sáu năm rồi, nhiều người đã dọn đi xứ khác, nhiều người đã chết,
chỉ còn lại rất ít người là biết chuyện của con, nhưng chắc họ cũng quên
khuấy đi rồi. Mà sao con hỏi vậy? Con không muốn người ta biết rằng con
đã xuất thân từ đâu, phải vậy không?"
"Bạch thầy không phải, không phải."
"Như vậy thì tốt. Nhân cách không nằm ở chỗ xuất thân từ đâu mà từ chính
giá trị thực có của mình."
"Dạ, con biết," chú cúi mặt nói nhỏ.
Theo như lời thầy kể, rồi nhìn hai ngôi mộ song song trước mặt, đọc
những chữ Hán viết trên mộ bia, chú thấy rõ đó chính là song thân của
mình. Chú quỳ xuống nhìn thật lâu nơi hai mộ bia, lặng người một lúc
lâu, chú bật khóc thảm thiết.
Vậy đó mà chú vẫn không sao tẩy xóa được nỗi mặc cảm đè nặng trong tâm
khảm mình: rằng chú là một đứa trẻ vô thừa nhận, được sinh ra bởi một
người cha tu sĩ phá giới, một người mẹ khuê các phá gia phong; rằng chú
bị bỏ rơi giữa chợ đời như một tội nhân tử hình ngay từ lúc sơ sinh. Bao
nhiêu ý nghĩ đó ám ảnh chú suốt mấy ngày kế tiếp sau khi nghe thầy kể rõ
sự tình. Thầy theo dõi từng biến động tâm tư hiện trên mặt chú, bèn gọi
chú hỏi chuyện:
"Con sẽ mang buồn cho đến bao giờ? Có sinh tức có diệt, sao phải ôm mãi
nỗi đau khổ biệt ly như thế!"
Chú lặng thinh không đáp lời thầy. Thầy biểu lộ tình cảm, lấy tay xoa
đầu chú:
"Thương cha mẹ, con rán tu học để cha mẹ vui lòng. Cha con là một tu sĩ
thông minh, có tuệ căn, làu thông kinh điển. Chỉ một phút yếu lòng mà
đánh mất sự nghiệp cao cả. Con có thương cha thì nối tiếp sự nghiệp đó
mới phải, sao cứ ôm lòng buồn rầu mãi. Con đến rót trà dâng ba đi, rồi
lên tụng kinh."
Chú cúi mặt bặm môi một chặp, bỗng ngước lên nói:
"Chỉ có thầy mới là cha con thôi. Ông ấy không phải là cha con!"
Nói rồi chú vụt đứng dậy, bỏ đi vào phòng riêng, đóng cửa lại. Thầy sững
sờ ngồi nhìn theo, lắc đầu buồn bã. Chú bỏ tụng kinh chiều hôm đó. Thầy
lặng lẽ đắp y áo, thắp hương, rót trà cho sư đệ Hải Thanh rồi thầy tụng
kinh thay chú.
Suốt mấy ngày, chú vẫn không ra khỏi phòng. Thầy đến gõ cửa, gọi mãi mà
không được. Mọi việc trong chùa thầy làm thay chú hết. Chú không ra khỏi
phòng nên cũng nhịn ăn luôn cả mấy ngày. Hai thầy trò sống bên nhau mười
sáu năm rồi, chưa lần nào vào bữa ăn mà thiếu thầy hay thiếu trò. Cho
nên, khi chú nhịn, thầy cũng nhịn theo, không buồn ăn nữa, chia xẻ nỗi
đau khổ nặng nề của chú. Đến ngày thứ tư, chú mới mở cửa bước ra, phờ
phạc, bệnh hoạn. Chú đến quỳ dưới chân thầy và khóc nức nở. Thầy chỉ lấy
tay xoa đầu chú.
Hai thầy trò bỗng dưng mà sống một cuộc sống lặng câm, buồn tẻ. Thầy để
chú tự do trong những suy tưởng riêng tư chứ không gợi chuyện gì với chú
cả. Không khí trong chùa vì vậy mà nặng nề. Cho đến một ngày nọ, sau khi
cùng làm lễ sám hối với thầy xong, chú mới cất được gánh nặng trong
lòng. Chú thưa với thầy:
"Con đã sai lầm. Con không thể phủ nhận công ơn sanh thành của cha mẹ."
"Tốt, con biết vậy là tốt. Mẹ con vì sinh mạng của con, vì muốn lưu giữ
giọt máu và hình bóng của cha con mà nhẫn nhục sống giữa bao lời xỉ vả,
bao trận đánh đập của gia đình để chờ ngày sinh ra con. Mẹ con tuy phá
gia phong nhưng, theo thầy, bà là người tinh mắt, thông minh, một phụ nữ
đức hạnh biết vượt lên cái hình thức bề ngoài để nhìn thấy được giá trị
tinh thần nơi cha con. Còn cha con, tuy phạm cấm giới, nhưng biết ăn
năn, biết trách nhiệm, đã can đảm bước vào tư dinh của ông ngoại con với
ước mong là cứu được hai mẹ con ra ngoài... và cha con đã chết vì dám
đứng ra đối đầu với nguy hiểm. Với truyền thống, với tập tục, cả hai đều
bị lên án. Nhưng họ đã chết một cách cao cả, ít nhất là đối với sinh
mạng của con, phải không? Ở một khía cạnh nào đó, một hoàn cảnh đặc biệt
nào đó, con sẽ thấy rằng cái mà người ta gọi là truyền thống, tập tục,
gia phong, lễ giáo v.v... thật ra chẳng là gì cả. Rỗng tuếch! Chỉ có
những tấm chân tình mới thực sự là có ý nghĩa mà thôi."
"Dạ, con hiểu," chú nói trong giọng xúc động và tri ân thầy đã chỉ giáo.
Chú không dám coi thường cha mẹ mình nữa. Chú thăm mộ cha mẹ hàng ngày,
chú rót trà dâng cha mẹ vào mỗi thời kinh. Sư thúc và dì Linh, chú không
còn gọi hai tên đó nữa mà gọi bằng cha mẹ. Chú cảm thấy có cái gì ngọt
ngào và khiến chú ấm lòng khi gọi lên hai tiếng cha mẹ đó. Tuy nhiên,
trên thực tế, chú chỉ vui sướng sống trong tình cảm và vòng tay vô hình
vô ảnh của cha mẹ; còn đối với những mặc cảm về thân phận mình, chú vẫn
không sao tẩy xóa đi một cách thoải mái được. Đến nỗi khi đi ra đường
với thầy, chú có cảm giác như mọi người đang nhìn mình, xầm xì, chỉ trỏ,
bàn tán về "người quét chợ". Từ đó, chú hết muốn ra khỏi chùa. Và đôi
lúc, chú muốn cải đổi cái tên Thanh Thị mà chú mang. Chú thấy cái tên đó
chỉ nhắc nhở chú về thân phận buồn tủi của chú mà thôi.
Vì thương chú, và vì chưa biết cách nào giải tỏa mặc cảm của chú một
cách hữu hiệu, thầy cũng chiều lòng chú, không sai chú ra ngoài nhiều và
cũng tránh cho chú những dịp phải ra trước đám đông.
Trải qua bốn năm, với tuổi đời thêm lớn, với sự học hỏi giáo lý, với sự
tu tập thiền định, và với sự tiếp thọ đại giới để trở thành một vị tỳ
kheo, chú dần dần thấy vơi đi những tình cảm lưu luyến xót xa cho chuyện
tình thương tâm của cha mẹ. Nhưng cái mặc cảm sợ người khác biết rõ thân
phận mình vẫn cứ đeo bám mãi trong lòng chú, không sao gột bỏ. Thầy biết
vậy, cố gắng tháo gỡ cái mặc cảm đó cho chú lần nữa bằng một cuộc nói
chuyện sau thời tụng kinh khuya:
"Thanh Thị, con đã trở thành một vị đại đức, một vị lãnh đạo tinh thần
xứng đáng cho đồ chúng noi gương tu tập. Vậy mà thầy thấy con như vẫn
còn ôm ấp cái mặc cảm rằng mình thấp hèn, phải vậy không? Con nói đi,
cái gì khiến con nghĩ như thế? Con có biết rằng chỉ một cái phiền não
nhỏ nhặt còn sót lại trong tâm cũng đủ ngăn trở con tiến đến giải thoát
hay không?"
Thanh Thị không nói không rằng, lặng lẽ bỏ vào phòng. Thầy đến gõ cửa,
đứng ngoài cửa nói vọng vào:
"Hãy nhìn kỹ những gì thầy làm. Nếu việc thầy làm khiến con thấy thầy
không xứng đáng là thầy của con nữa thì con hãy rời thầy mà đi tìm một
minh sư khác để tham vấn. Con không thay đổi thì suốt một đời ở bên thầy
cũng chỉ vô ích mà thôi. Làm sao thấy được vòm trời giải thoát chứ!"
Nói rồi thầy bỏ đi. Thanh Thị thấy không khí im quá, biết là thầy không
còn đứng ngoài cửa phòng mình. Thanh Thị thắc mắc không hiểu thầy đi đâu
và làm gì. Chú bước ra, tìm thầy. Thầy không có trong chùa. Thầy đã đi
ra ngoài. Chú bước ra cổng chùa nhìn hai bên thì thấy thầy đang cầm chổi
quét ở xa xa. Thầy quét về hướng chợ. Chú bặm môi, rồi cắn răng chạy vào
phòng mình, ôm mặt khóc như một đứa trẻ. Thầy đã quét chợ như cha chú đã
làm trước đây. Thầy muốn chứng minh cho chú thấy rằng việc quét chợ
không có gì xấu mà còn là một hạnh nguyện cao cả chỉ có cha chú mới làm
nổi. Nhưng, sự cố gắng của thầy không mang lại kết quả gì. Chú vẫn không
sao chấp nhận được hành vi quét chợ cho dù thầy có khoác lên đó bao
nhiêu ý nghĩa cao đẹp.
Khi thầy quét chợ về, cất chổi dưới bếp, chú đón lạy thầy ngay ở thềm
bếp, năn nỉ:
"Lạy thầy, xin thầy đừng vì con mà phải nhọc đến thân tâm như thế. Xin
thầy đừng làm vậy nữa, con không chịu nổi."
Thầy không nói. Ngày mai thầy lại tiếp tục quét chợ. Chú lại lạy lục xin
thầy chấm dứt. Thầy kiên quyết:
"Ta chỉ ngưng khi nào con thực sự đốt cháy được cái mặc cảm và ý nghĩ
cho rằng quét chợ là việc xấu hay thấp hèn. Con không thay đổi, sẽ không
giải thoát, sẽ không tìm thấy an lạc cho dù đang khoác mặc tăng bào. Và
nếu con không thay đổi, ta sẽ quét chợ cho đến khi nào ta nhắm mắt mới
thôi."
Thầy tiếp tục quét. Thanh Thị vẫn không thay đổi mà còn đau khổ hơn. Đến
nỗi, chú bỏ thầy mà đi, chỉ ghi lại vài dòng vắn tắt rằng chú muốn đi
tham học ở phương xa.
Chú đi xa thật xa khỏi nơi chốn sinh ra và trưởng thành của mình để xóa
đi bao hình ảnh, bao ý nghĩ đau buồn về thân phận. Chú tìm tới nhiều vị
thầy để học hỏi, nhưng không vị thầy nào đả thông được những mặc cảm của
chú. Một hôm, nghe đến danh tiếng của một vị thiền sư tên là Đại Ngốc,
chú tức tốc tìm đến vị này để học đạo vì chú hy vọng rằng ông ta cũng
mang một cái tên không được tao nhã, có thể ông ta sẽ có thuốc hay để
chữa căn bệnh mặc cảm của chú. Chú nghĩ có lẽ đằng sau cái tên của vị
thiền sư này cũng mang một quá khứ nếu không đau xót như chú thì cũng
cay chua buồn cười chứ chẳng không.
Thiền sư Đại Ngốc ẩn cư trong một am tranh trên núi cao. Khi lên tới
nơi, chú thấy một cái bảng nhỏ treo trên một thân cây: "Đại Ngốc Am".
Chú bước vào đảnh lễ thiền sư, hỏi ngay:
"Bạch thầy, làm sao có thể gột bỏ được một danh từ chỉ đem lại cho mình
những buồn phiền, khổ đau?"
"Nó chỉ là một tên gọi giả tạo thì cần gì phải gột bỏ!"
"Nhưng... rõ ràng là nó đeo bám và gợi lên bao điều đau xót cho con từ
nhiều năm nay."
"Đeo bám chỗ nào? Gợi lên cái gì? Ở đâu? Nói ta nghe!"
Thanh Thị hốt nhiên giác ngộ lẽ sinh diệt huyễn hóa của muôn sự muôn
vật, liền sụp lạy thiền sư mà về. Chú đi ngày đêm không dừng nghỉ, những
mong về quỳ dưới chân thầy mà sám hối.
*
Từ hai năm rồi, khi Thanh Thị bỏ chùa mà đi, thầy Hải Chấn cứ mang chổi
ra quét sân chùa rồi quét luôn tới chợ. Ban đầu thầy quét chỉ để thức
tỉnh Thanh Thị, nhưng khi quét, thầy cảm nhận được nhiều ý nghĩa cũng
như công dụng tu tập ngay trong chính sự việc quét chợ đó. Thầy tập
trung tâm mình vào từng động tác quét, lắng nghe tiếng chổi khua nhẹ
trên đất, nhìn ngọn chổi vờn trên cỏ rác... không phút giây nào mà không
lắng lòng vào việc quét. Đến độ, thầy với cây chổi chỉ là một. Vì vậy,
âm thanh náo loạn của chợ búa không ảnh hưởng, không tổn hại gì đến tự
tâm thanh tịnh của thầy. Chính trong loạn động thầy tìm thấy sự tịch
lặng. Và thầy có thể an lạc trong chính việc quét chợ tầm thường hàng
ngày. Trong khi đó, hình bóng của thầy, việc quét dọn của thầy giữa chợ
đời cũng làm cho khu chợ sạch sẽ hơn, bớt huyên náo xô bồ, và người ta
cũng bớt cạnh tranh cãi vả nhau. Mỗi lúc thấy thầy quét đến chợ, người
ta bỗng dưng giảm chuyện nói năng, có nói thì nói nhỏ giọng xuống. Đức
độ của thầy làm thay đổi không khí chợ một cách rõ rệt.
Hôm nay thầy đang quét đến giữa chợ, bỗng có người nắm lấy cây chổi của
thầy, nói với giọng cung kính:
"Bạch thầy, thầy hãy về nghỉ ngơi để con quét thay thầy."
Thầy ngưng tay ngước nhìn và thấy Thanh Thị. Khuôn mặt của chú ấy không
còn dấu vết của mặc cảm, khổ đau và phiền não. Thầy mỉm cười trao chổi
cho chú quét, và thầy bước theo chú, từng bước chậm.
Từ đó, cứ mỗi sáng, người ta thấy hai thầy trò tu sĩ cùng quét đường,
quét chợ. Bóng dáng họ xuất hiện nơi đâu, sự an lạc lan tỏa ra đến đó.
Hai năm sau, thầy Hải Chấn viên tịch. Trước khi từ giã cuộc đời, thầy
gọi Thanh Thị đến bên thiền sàng, trao cho Thanh Thị cây chổi mà thầy
thường dùng để quét chợ hàng ngày:
"Đời thầy mấy mươi năm học đạo không ngờ đến tuổi xế chiều mới tìm thấy
được đạo lớn từ cây chổi tầm thường này. Đây là tất cả công phu và ý chỉ
của thầy. Con hãy giữ lấy mà đi cho trọn con đường của con."
Nói rồi thầy hóa. Thanh Thị cất cây chổi đó trong phòng riêng của mình
như một kỷ vật ghi lại hình ảnh cao đẹp của cha, của mẹ, và nhất là của
thầy mình.
Sáng hôm sau, Thanh Thị vẫn cứ quét chợ. Người ở chợ thấy Thanh Thị quét
một mình thì biết rằng thầy Hải Chấn đức độ khả kính của họ đã mất.
Thanh Thị quét chợ cho đến tuổi già. Mấy mươi năm không hề xao lãng. Bây
giờ Thanh Thị đã trở thành một vị hòa thượng đạo đức thanh cao, nổi
tiếng với cây chổi và hạnh nguyện quét chợ. Hải Thanh quét chợ sáu năm.
Hải Chấn quét chợ bốn năm. Riêng Thanh Thị thì quét chợ đến sáu mươi
năm. Bao khuôn mặt mới có cũ có, thay nhau ngồi bán hoặc đi mua sắm ở
khu chợ, không ai mà không biết đến Thanh Thị quét chợ. Hình ảnh Thanh
Thị đã trở nên quen thuộc và gắn liền với khu chợ khiến cho mọi người
nẩy ý lấy tên vị hòa thượng này để đặt cho khu chợ: chợ Thanh Thị—một
cái chợ sạch. Ngày Thanh Thị ngưng quét thì tuổi đã tám mươi tư. Ngày
ấy, bầu trời u ám. Ngoài khu chợ, cỏ rác đầy mà chẳng thấy tăm dạng
Thanh Thị đâu. Chợt nghe chuông chùa vẳng lại ba hồi buồn bã. Mọi người
ở khu chợ bỗng sa lệ vì biết rằng vị hòa thượng già mang tên Thanh Thị sẽ không bao giờ cầm chổi ra quét chợ này nữa. Cả người bán lẫn khách
mua đều sụt sùi khóc.
"Nhớ dâng trà cúng sư thúc và dì Linh nghe con?" thầy nhắc chú tiểu khi
thấy chú sửa soạn lên chánh điện để cúng ngọ.
"Bạch thầy, con nhớ," chú đáp.
Đó là câu mà thầy cứ nhắc chú mỗi ngày trước mỗi thời kinh. Chú chẳng
biết sư thúc là ai, dì Linh là ai. Trên chiếc bàn thờ nhỏ đặt cạnh bàn
Tổ, chú chỉ thấy hai cái bài vị được viết bằng chữ Hán chứ chẳng có hình
ảnh gì cả. Vì thầy nhắc mãi nên chú không lúc nào quên, vậy mà thầy cứ
nhắc. Nghe nhắc hoài, ban đầu chú hơi bực mình, nhưng riết rồi cũng
quen. Và khi chú rót trà cúng cho hai người đó, chú cũng làm như một cái
máy chứ không suy nghĩ gì. Chùa chỉ có một thầy một trò, nên thầy thương
chú lắm và chú cũng quí kính thầy vừa như cha mẹ, vừa như thầy, và thỉnh
thoảng như một người bạn đạo. Chú không có tên thế tục. Chú chẳng hiểu
lý do vì sao. Có lẽ vì chú sống ở chùa từ nhỏ nên thầy đã không đặt tên
thế tục cho chú mà chỉ đặt cho chú một pháp danh là Thanh Thị. Chú lớn
lên ở trong chùa, quen với tên gọi mà thầy đặt cho, chẳng thắc mắc gì.
Nhưng đến khi được thầy dạy cho học chữ Hán, chú mới hiểu được cái tên
đọc nghe như tên con gái của mình lại có một ý nghĩa kỳ cục, không được
thanh nhã cho lắm. Nó có vẻ như được đặt ra để đánh dấu một kỷ niệm nào
đó của thầy, hoặc cho chính chú. Chú băn khoăn suy nghĩ mãi về ý nghĩa
của cái tên mà mình đeo mang. Nhân lúc cùng thầy nhổ cỏ sau vườn chùa,
chú hỏi:
"Bạch thầy, tại sao thầy đặt tên con là Thanh Thị?"
"Vì thầy thích đặt như vậy," thầy chú thản nhiên trả lời.
"Lâu nay con tưởng rằng chữ thị có nghĩa là đây, như vầy, giống như chữ
thị trong như thị, đích thị hoặc chữ thị như trong biểu thị, thị hiện...
nhưng mới hôm qua, thầy viết tên con bằng chữ thị có nghĩa là chợ. Con
không rõ là tên con sao lại có cái nghĩa không được hay. Xin thầy giải
thích cho con."
Thầy nghiêm giọng nói:
"Chỉ là tên gọi thôi, có gì mà phải bận tâm, nhổ cỏ đi."
Chú cúi xuống nhổ cỏ tiếp, nhưng được một lúc, chú lại hỏi:
"Con biết đó chỉ là tên gọi thôi, nhưng tên gọi cũng phải nói lên một
cái gì, một ý nghĩa gì chứ."
"Thì chợ cũng là một cái gì, một ý nghĩa gì rồi đó," thầy đáp.
"Con thấy chợ chỉ có ý nghĩa là dơ, ồn ào, phức tạp... toàn là xấu không
à. Con không tìm ra được ý nghĩa nào hay đẹp ở trong nó. Khi thầy đặt
tên con, chắc chắn là thầy có nghĩ đến một ý tưởng hay một hình ảnh gì
đó về cái chợ, phải không, bạch thầy?"
"Nhiều chuyện quá," thầy nói, "nhổ cỏ đi."
Chú im lặng nhổ cỏ, không dám hỏi nữa. Nhưng trong đầu óc chú bắt đầu
nẩy ra những suy tưởng, những phán đoán về sự đặt tên của thầy. Chú
nghĩ, năm nay chú đã mười sáu tuổi rồi, có thể nói là chú đủ trưởng
thành để nghe thầy kể về lai lịch của chú. Lâu nay mỗi lần chú hỏi đến
vấn đề đó, thầy chỉ nói là chú chưa trưởng thành, chưa đến lúc cần biết.
Nhưng dù thầy chẳng nói ra, chú cũng không đến nỗi ngu độn để không biết
rằng chú là một đứa bé mồ côi. Ai cũng có cha mẹ, riêng chú không có.
Cái thực tế đó làm gì thầy che giấu được. Nhưng tại sao lại đặt tên là
Thị, có nghĩa là chợ? Có lẽ... có lẽ cha hay mẹ của chú là người bán
hàng ngoài chợ, hoặc là người chủ chợ. Nhưng ba mẹ chú đâu mà để cho
thầy phải đặt tên? Cũng có thể mẹ chú đi ngang chợ thì sinh ra chú.
Không, nếu mẹ chú sinh ra chú ở chợ thì cũng đem về nhà, và chú vẫn còn
người mẹ đó chứ chú đâu có mồ côi để cho thầy phải đặt tên! Hay là...
hay là thầy lượm được chú ngoài chợ, đem về chùa nuôi cho đến ngày hôm
nay? Chính vì kỷ niệm đó mà thầy đặt tên cho chú là Thị (chợ)?
"Bạch thầy..." chú không ngăn được nỗi háo hức tìm hiểu thân phận mình,
lại mở miệng hỏi.
"Gì nữa đây?" thầy không nhìn chú.
"Có phải... có phải con là đứa con rơi thầy lượm ở ngoài chợ đem về hay
không?"
Thầy ngưng tay nhổ cỏ. Im lặng một lúc, thầy tiếp tục nhổ, vừa nói:
"Nhổ cỏ."
Đến chiều, sau giờ ăn cháo, thầy gọi chú cùng dạo sân với thầy. Hai thầy
trò tản bộ cho đến vườn sau, nơi có hai ngôi mộ mà thỉnh thoảng chú thấy
thầy ra thắp hương. Một cái mộ thì chú biết là của sư thúc chú, còn cái
còn lại chú chẳng biết của ai và cũng không để ý lắm.
"Con đã dâng trà cho sư thúc và dì Linh lúc công phu chiều rồi hả?" thầy
hỏi.
"Bạch thầy, rồi," chú trả lời như máy.
Thầy nhặt mấy chiếc lá nằm trên mộ sư thúc, nhổ vài bụi cỏ mới mọc quanh
hai ngôi mộ. Rồi thầy bắt đầu kể chuyện cho chú nghe.
*
Thầy Hải Chấn đang ngồi đọc sách thì Hải Thanh, sư đệ của thầy, bước
vào, mặt buồn dàu dàu. Hải Chấn hỏi:
"Gì mà sư đệ có vẻ rầu lo vậy?"
Hải Thanh buồn bã đứng nhìn ra cửa sổ một lúc rồi nói:
"Đệ... đã phạm giới..." Hải Thanh nói đến đó thì rơi nước mắt.
Hải Chấn kéo tay sư đệ ngồi xuống, vỗ về:
"Có trầm trọng lắm không? Đệ đã sám hối chưa?"
"Đã sám hối. Nhưng đó là cho tự tâm. Không giải quyết gì được cho hoàn
cảnh."
"Chuyện gì vậy? Nói đi, để xem huynh có thể giúp gì cho đệ không."
"Huynh đừng trách mắng đệ nghe..."
"Phạm tội thì sám hối; huynh trách mắng có thay đổi gì được đâu! Nói đi,
đừng chất chứa trong lòng," Hải Chấn nói với giọng đầy cảm thương.
Hải Thanh đưa hai tay ôm lấy đầu, mặt gục xuống bàn, nói:
"Cô ấy đã có mang."
Hải Chấn sửng sốt một lúc, rồi thở dài, hỏi:
"Cô ấy là ai vậy?"
"Sư huynh không biết đâu. Cô ấy không hề đến chùa mình."
"Vậy làm sao đệ quen để đến nỗi..."
"Thôi, huynh hỏi làm gì chuyện đó cho mệt. Bây giờ, đệ chỉ hỏi huynh một
điều là đệ phải làm sao đây?"
Hải Chấn nhíu mày, thấy khó xử. Theo luật, Hải Thanh đã phạm một trong
các tội Ba-la-di, tức những trọng giới mà đương sự bị coi như mất cả
giới thể, không còn là tỳ-kheo thanh tịnh nữa, không thể chữa được
nữa—như cây dừa, cây cau, đã chặt đi khúc đầu (đoạn đầu) thì không thể
mọc lại tàu lá mới. Đã tới nước đó thì Hải Chấn biết góp ý với Hải Thanh
điều gì nữa. Hải Chấn thở dài nói:
"Huynh cũng chẳng biết phải góp ý với đệ làm sao. Chuyện không đơn giản
đâu. Đệ phải nói rõ sự việc may ra..."
Hải Thanh ngập ngừng lúc lâu rồi kể:
"Cũng vì cái hạnh quét chợ mà đệ vướng phải nghịch cảnh này. Huynh cũng
biết mà, mỗi sáng đệ quét từ sân ra tới chợ, mặc ai cười ai chê, đệ quét
thì cứ quét, vừa quét vừa quán niệm về sự cấu bẩn của thế gian và thanh
tịnh của niết bàn... năm này qua năm nọ, mưa hay nắng, đệ cũng không bỏ
ngày nào. Thế rồi... cô ấy lưu ý đến đệ. Và... một ngày nọ, đệ sa ngã."
"Buồn thay cho đệ. Cô ấy bán ngoài chợ à?"
"Không, cô chỉ đi ngang chợ thôi."
"Vậy bây giờ gia đình cô ấy đã biết rằng chính đệ đã làm... cái chuyện
gì đó chưa?"
"Chưa, cô ấy không nói ra là ai. Nhưng... có lẽ có ngày họ cũng biết. Mà
họ có biết hay không thì... mình cũng phải tự liệu."
"Tự liệu?"
"Ý đệ nói là mình phải giải quyết vấn đề đó bằng cách đến nói chuyện với
gia đình cô ấy, xin hỏi cưới cô ấy, hoặc là... đệ cùng cô ấy trốn đi xa
để khỏi mang tai tiếng cho gia đình cô ấy và cho chùa nữa."
"Nghĩa là đệ sẽ hoàn tục?"
"Chứ biết sao bây giờ. Huynh có cách gì hay hơn không?"
Hải Chấn ứa nước mắt, thương sư đệ mình gặp nghịch duyên đến phải bỏ
đường tu, nhưng chẳng biết phải giúp bằng cách nào. Hải Chấn ngồi lặng
thinh. Một chặp, Hải Chấn nói:
"Huynh chẳng biết cách nào hết, mong đệ tha thứ cho sự chậm lụt của
huynh. Huynh nghĩ chắc phải làm theo một trong hai cách mà đệ nêu ra
thôi. Mà cho dù chọn giải pháp nào, huynh cũng xin lưu ý đệ một điều
rằng đệ nên giải bỏ hình thức tăng sĩ trước khi..."
"Đệ hiểu."
Hai huynh đệ im lặng, mỗi người một dòng suy tưởng.
Hải Chấn nhớ lại bao kỷ niệm mà thầy cùng Hải Thanh trải qua nơi ngôi
chùa này từ thuở còn để chóp đến nay. Hải Thanh thông minh, nhanh nhẹn
mà lại siêng năng nên cái gì cũng vượt qua mặt sư huynh. Nhưng đến khi
sư phụ sắp viên tịch, sư phụ lại giao trọng trách trụ trì cho Hải Chấn.
Lúc đó Hải Chấn đã không nhận vì cho rằng sư đệ vượt trội hơn mình quá
nhiều. Hải Thanh cũng không chịu nhận chức trụ trì, còn sư phụ thì nhất
quyết phải giao chức ấy cho Hải Chấn dù Hải Chấn học hành chậm lụt. Rốt
cuộc Hải Chấn phải nhận. Giờ ra đi, sư phụ không nói gì nhiều ngoài việc
khuyên răn hai huynh đệ nương nhau tu tập, và những lời cuối cùng của sư
phụ đều nhắm vào Hải Thanh, cảnh giác Hải Thanh là không nên chú trọng
vào sở kiến sở văn mà bỏ quên phần tu tập. Sau khi sư phụ mất, Hải Thanh
thức tỉnh, nỗ lực hành trì, không bao giờ chểnh mảng. Rồi một ngày đó,
Hải Thanh bỗng phát nguyện quét luôn cả chợ thay vì chỉ quét sân chùa.
Hải Chấn không ngăn cản chi hạnh nguyện của sư đệ mình vì nghĩ rằng đó
cũng là hạnh tốt thôi. Hải Thanh cho rằng hình ảnh người tu sĩ hiền lành
nhẫn nại có mặt nơi phố chợ đông người sẽ cảm hóa và gây được tín tâm
cho nhiều người. Ngoài ra, quét chợ cũng là một cách tu luyện cho tâm
được định tĩnh ngay giữa chốn náo động. Không ngờ, chính hạnh nguyện cao
đẹp đó lại đốn ngã Hải Thanh trong một nghịch duyên đau xót.
Hải Thanh không ôn lại kỷ niệm xưa mà chỉ ưu tư vấn đề xảy ra trước mắt.
Hải Thanh nhớ đến Thùy Linh, cô gái đã có mang với mình. Cô ấy rất đẹp
và là một tiểu thư con của quan huyện. Với sự thông minh vốn có, lại
thêm sự giúp đỡ bày mưu của cô nữ tì, cô ấy đã tạo đủ điều kiện để lôi
kéo Hải Thanh ngã vào vòng tay mình. Từ những phút đầu Hải Thanh đã biết
mình rơi vào lưới tình, nếu không thức tỉnh quay lại ngay với thiền môn
thì khó bề giữ gìn được đạo hạnh của mình, nhưng bóng sắc lộng lẫy kiêu
sa của nàng đã không để cho Hải Thanh chùn bước mà còn kéo thầy lậm sâu
thêm vào cơn men ái dục. Bây giờ chuyện đã lỡ rồi, không cưỡng lại được
nữa. Hải Thanh muốn rủ Thùy Linh cùng bỏ huyện này trốn đi với mình qua
xứ khác sinh sống và cũng để tránh tiếng cho cả đôi bên, nhưng Thùy Linh
không dám. Nàng đã ở lại để rồi không che dấu được cái thai càng lúc
càng lớn. Nàng đã bị cha đánh đập, mắng chửi dữ dội. Hải Thanh nghe nữ
tì nói lại như vậy nhưng chẳng biết phải làm sao. Nhiều lúc Hải Thanh
muốn lẻn vào tư dinh quan huyện để cứu nàng ra khỏi đó, nhưng lính gác
canh phòng nghiêm mhặt, không cách gì vào được. Dù đã từng xem thế sự
như một giấc mộng hư huyễn, trước tình cảnh đau xót mà Thùy Linh phải
hứng chịu, Hải Thanh không khỏi nghe tan nát trong lòng.
Đêm đó, hai huynh đệ ngồi thức trắng bên bàn sách. Đến lúc mờ sáng, Hải
Thanh mới rời phòng sách vào phòng riêng, lấy khăn chít lấy đầu để che
dấu cái đầu tròn tu sĩ của mình, thay đổi y phục như một người thế tục
rồi từ giã Hải Chấn mà đi. Hải Chấn hỏi:
"Đệ đi đâu vậy?"
"Đến tư dinh quan huyện nói chuyện thẳng với cha cô ấy."
"Sao huynh thấy ái ngại cho chuyến đi này của đệ quá. Thấy có gì không
ổn. Đệ liệu có thể thuyết phục được cha mẹ cô ấy không?"
Hải Thanh không đáp, chỉ nhún vai rồi đi. Hải Chấn níu lại, dúi vào bọc
vải của sư đệ một túi tiền nhỏ:
"Đó là tiền riêng của huynh, không phải của chùa đâu, đừng ngại. Đệ mang
theo để có gì..."
"Cám ơn huynh. Đệ đi đây. Nếu có tin tốt đẹp, đệ sẽ cùng Thùy Linh ghé
thăm huynh trước khi rời xứ này."
Và Hải Thanh đi luôn, không trở lại. Hải Chấn bồn chồn lo lắng suốt cả
ngày và đêm hôm đó. Sáng hôm sau, khi Hải Chấn ra vườn thì thấy xác Hải
Thanh nằm ở trước sân chùa, thân thể tím bầm vì bị đánh đập đến tắt thở.
Hải Chấn đến khiếu nại với quan huyện nhưng huyện đường đóng cửa, lính
gác xua thầy về. Thầy đành ngậm ngùi chôn xác sư đệ sau vườn chùa. Nghĩ
rằng có làm to chuyện lên thì sư đệ nhắm mắt cũng không được yên.
Hai tháng sau, Thùy Linh sinh hạ một bé trai. Nửa đêm nàng lẻn trốn khỏi
dinh, mang con ra chợ, ngồi nơi sạp hàng mà ôn lại chuyện xưa khi nàng
đi ngang đây và bắt gặp nhà sư quét chợ lạ kỳ. Nàng ngồi giữa trời sương
cho đến sáng thì chết, tay vẫn còn ôm đứa bé sơ sinh đang khóc.
Quan huyện lâu nay cố che dấu chuyện con gái mình nhưng nay, cái chết
của Thùy Linh ngay giữa chợ đã làm cho câu chuyện nhanh chóng truyền đi;
ông bực dọc và căm giận đến độ sai lính treo bảng thông báo rằng ông đã
từ đứa con trắc nết phá hoại gia phong, rằng ông không chịu trách nhiệm
về cái chết của Thùy Linh cũng như không chấp nhận đứa con của người
quét chợ. Thông cáo của ông có vẻ như ngầm phán rằng đứa bé phải chịu
chết giữa chợ đời, không ai được phép cứu nó. Vì uy quyền hống hách cũng
như sự giận dữ của quan huyện, không ai dám mang đứa bé sơ sinh về nuôi.
Người ta gỡ đứa bé khỏi vòng tay lạnh giá và cứng đờ của mẹ nó rồi đặt
nó nằm trong một chiếc nôi, để giữa chợ để chờ kẻ nào động lòng trắc ẩn
đến mang nó đi. Những người đàn bà bán hàng ngoài chợ đã chăm lo sữa cho
đứa bé suốt ngày đó, nhưng cũng không ai chịu nhận đứa bé về. Còn xác
Thùy Linh thì được quấn sơ sài bằng một cái chiếu, đặt ở gần đó. Đến
chiều tối thì chuyện đến tai Hải Chấn. Thầy liền tức tốc ra chợ, ôm
chiếc nôi nhỏ mang về chùa. Còn xác Thùy Linh, thầy bảo những người
phật-tử bán hàng ở chợ giúp đem về chùa chôn. Ấy vậy mà quan huyện không
dám động đến Hải Chấn vì cả nể đức hạnh và uy tín của thầy. Đứa bé được
yên thân sống và lớn lên trong cửa chùa.
*
Nước mắt ràn rụa trên hai gò má bầu bĩnh, chú tiểu Thanh Thị quì xuống
chân thầy:
"Tạ ơn thầy cứu sống và nuôi dưỡng con."
Thầy đỡ chú dậy, nói tiếp:
"Sư thúc của con có linh vị thờ trong chùa mà thầy thường nhắc con rót
trà dâng cúng chính là Hải Thanh cha của con đó. Sư thúc với thầy tu học
với nhau từ nhỏ nên ngoài tình đạo bạn còn coi nhau như anh em ruột.
Chuyện của sư thúc khiến thầy đau lòng quá mà không biết giúp bằng cách
nào. Nuôi dưỡng con chỉ là một chuyện nhỏ để biểu lộ sự mến tiếc của
thầy đối với sư thúc thôi. Huống chi, làm sao thầy có thể bỏ mặc một đứa
trẻ kêu khóc không người đoái hoài..."
Chú tiểu Thanh Thị bây giờ đã hiểu vì sao chú có cái tên lạ kỳ đó: Thanh
là tên của cha chú còn Thị chính là chợ, là nơi ghi lại kỷ niệm chua xót
đầu đời của cha chú, mẹ chú, và cả chú nữa.
"Vậy quan huyện hiện nay chính là ông ngoại của con hở, bạch thầy?"
"Không. Ông và phu nhân đều đã qua đời. Quan huyện hiện nay là người mới
được bổ nhiệm."
"Vậy những người ở ngoài chợ... đều biết chuyện của con hở thầy?"
"Mười sáu năm rồi, nhiều người đã dọn đi xứ khác, nhiều người đã chết,
chỉ còn lại rất ít người là biết chuyện của con, nhưng chắc họ cũng quên
khuấy đi rồi. Mà sao con hỏi vậy? Con không muốn người ta biết rằng con
đã xuất thân từ đâu, phải vậy không?"
"Bạch thầy không phải, không phải."
"Như vậy thì tốt. Nhân cách không nằm ở chỗ xuất thân từ đâu mà từ chính
giá trị thực có của mình."
"Dạ, con biết," chú cúi mặt nói nhỏ.
Theo như lời thầy kể, rồi nhìn hai ngôi mộ song song trước mặt, đọc
những chữ Hán viết trên mộ bia, chú thấy rõ đó chính là song thân của
mình. Chú quỳ xuống nhìn thật lâu nơi hai mộ bia, lặng người một lúc
lâu, chú bật khóc thảm thiết.
Vậy đó mà chú vẫn không sao tẩy xóa được nỗi mặc cảm đè nặng trong tâm
khảm mình: rằng chú là một đứa trẻ vô thừa nhận, được sinh ra bởi một
người cha tu sĩ phá giới, một người mẹ khuê các phá gia phong; rằng chú
bị bỏ rơi giữa chợ đời như một tội nhân tử hình ngay từ lúc sơ sinh. Bao
nhiêu ý nghĩ đó ám ảnh chú suốt mấy ngày kế tiếp sau khi nghe thầy kể rõ
sự tình. Thầy theo dõi từng biến động tâm tư hiện trên mặt chú, bèn gọi
chú hỏi chuyện:
"Con sẽ mang buồn cho đến bao giờ? Có sinh tức có diệt, sao phải ôm mãi
nỗi đau khổ biệt ly như thế!"
Chú lặng thinh không đáp lời thầy. Thầy biểu lộ tình cảm, lấy tay xoa
đầu chú:
"Thương cha mẹ, con rán tu học để cha mẹ vui lòng. Cha con là một tu sĩ
thông minh, có tuệ căn, làu thông kinh điển. Chỉ một phút yếu lòng mà
đánh mất sự nghiệp cao cả. Con có thương cha thì nối tiếp sự nghiệp đó
mới phải, sao cứ ôm lòng buồn rầu mãi. Con đến rót trà dâng ba đi, rồi
lên tụng kinh."
Chú cúi mặt bặm môi một chặp, bỗng ngước lên nói:
"Chỉ có thầy mới là cha con thôi. Ông ấy không phải là cha con!"
Nói rồi chú vụt đứng dậy, bỏ đi vào phòng riêng, đóng cửa lại. Thầy sững
sờ ngồi nhìn theo, lắc đầu buồn bã. Chú bỏ tụng kinh chiều hôm đó. Thầy
lặng lẽ đắp y áo, thắp hương, rót trà cho sư đệ Hải Thanh rồi thầy tụng
kinh thay chú.
Suốt mấy ngày, chú vẫn không ra khỏi phòng. Thầy đến gõ cửa, gọi mãi mà
không được. Mọi việc trong chùa thầy làm thay chú hết. Chú không ra khỏi
phòng nên cũng nhịn ăn luôn cả mấy ngày. Hai thầy trò sống bên nhau mười
sáu năm rồi, chưa lần nào vào bữa ăn mà thiếu thầy hay thiếu trò. Cho
nên, khi chú nhịn, thầy cũng nhịn theo, không buồn ăn nữa, chia xẻ nỗi
đau khổ nặng nề của chú. Đến ngày thứ tư, chú mới mở cửa bước ra, phờ
phạc, bệnh hoạn. Chú đến quỳ dưới chân thầy và khóc nức nở. Thầy chỉ lấy
tay xoa đầu chú.
Hai thầy trò bỗng dưng mà sống một cuộc sống lặng câm, buồn tẻ. Thầy để
chú tự do trong những suy tưởng riêng tư chứ không gợi chuyện gì với chú
cả. Không khí trong chùa vì vậy mà nặng nề. Cho đến một ngày nọ, sau khi
cùng làm lễ sám hối với thầy xong, chú mới cất được gánh nặng trong
lòng. Chú thưa với thầy:
"Con đã sai lầm. Con không thể phủ nhận công ơn sanh thành của cha mẹ."
"Tốt, con biết vậy là tốt. Mẹ con vì sinh mạng của con, vì muốn lưu giữ
giọt máu và hình bóng của cha con mà nhẫn nhục sống giữa bao lời xỉ vả,
bao trận đánh đập của gia đình để chờ ngày sinh ra con. Mẹ con tuy phá
gia phong nhưng, theo thầy, bà là người tinh mắt, thông minh, một phụ nữ
đức hạnh biết vượt lên cái hình thức bề ngoài để nhìn thấy được giá trị
tinh thần nơi cha con. Còn cha con, tuy phạm cấm giới, nhưng biết ăn
năn, biết trách nhiệm, đã can đảm bước vào tư dinh của ông ngoại con với
ước mong là cứu được hai mẹ con ra ngoài... và cha con đã chết vì dám
đứng ra đối đầu với nguy hiểm. Với truyền thống, với tập tục, cả hai đều
bị lên án. Nhưng họ đã chết một cách cao cả, ít nhất là đối với sinh
mạng của con, phải không? Ở một khía cạnh nào đó, một hoàn cảnh đặc biệt
nào đó, con sẽ thấy rằng cái mà người ta gọi là truyền thống, tập tục,
gia phong, lễ giáo v.v... thật ra chẳng là gì cả. Rỗng tuếch! Chỉ có
những tấm chân tình mới thực sự là có ý nghĩa mà thôi."
"Dạ, con hiểu," chú nói trong giọng xúc động và tri ân thầy đã chỉ giáo.
Chú không dám coi thường cha mẹ mình nữa. Chú thăm mộ cha mẹ hàng ngày,
chú rót trà dâng cha mẹ vào mỗi thời kinh. Sư thúc và dì Linh, chú không
còn gọi hai tên đó nữa mà gọi bằng cha mẹ. Chú cảm thấy có cái gì ngọt
ngào và khiến chú ấm lòng khi gọi lên hai tiếng cha mẹ đó. Tuy nhiên,
trên thực tế, chú chỉ vui sướng sống trong tình cảm và vòng tay vô hình
vô ảnh của cha mẹ; còn đối với những mặc cảm về thân phận mình, chú vẫn
không sao tẩy xóa đi một cách thoải mái được. Đến nỗi khi đi ra đường
với thầy, chú có cảm giác như mọi người đang nhìn mình, xầm xì, chỉ trỏ,
bàn tán về "người quét chợ". Từ đó, chú hết muốn ra khỏi chùa. Và đôi
lúc, chú muốn cải đổi cái tên Thanh Thị mà chú mang. Chú thấy cái tên đó
chỉ nhắc nhở chú về thân phận buồn tủi của chú mà thôi.
Vì thương chú, và vì chưa biết cách nào giải tỏa mặc cảm của chú một
cách hữu hiệu, thầy cũng chiều lòng chú, không sai chú ra ngoài nhiều và
cũng tránh cho chú những dịp phải ra trước đám đông.
Trải qua bốn năm, với tuổi đời thêm lớn, với sự học hỏi giáo lý, với sự
tu tập thiền định, và với sự tiếp thọ đại giới để trở thành một vị tỳ
kheo, chú dần dần thấy vơi đi những tình cảm lưu luyến xót xa cho chuyện
tình thương tâm của cha mẹ. Nhưng cái mặc cảm sợ người khác biết rõ thân
phận mình vẫn cứ đeo bám mãi trong lòng chú, không sao gột bỏ. Thầy biết
vậy, cố gắng tháo gỡ cái mặc cảm đó cho chú lần nữa bằng một cuộc nói
chuyện sau thời tụng kinh khuya:
"Thanh Thị, con đã trở thành một vị đại đức, một vị lãnh đạo tinh thần
xứng đáng cho đồ chúng noi gương tu tập. Vậy mà thầy thấy con như vẫn
còn ôm ấp cái mặc cảm rằng mình thấp hèn, phải vậy không? Con nói đi,
cái gì khiến con nghĩ như thế? Con có biết rằng chỉ một cái phiền não
nhỏ nhặt còn sót lại trong tâm cũng đủ ngăn trở con tiến đến giải thoát
hay không?"
Thanh Thị không nói không rằng, lặng lẽ bỏ vào phòng. Thầy đến gõ cửa,
đứng ngoài cửa nói vọng vào:
"Hãy nhìn kỹ những gì thầy làm. Nếu việc thầy làm khiến con thấy thầy
không xứng đáng là thầy của con nữa thì con hãy rời thầy mà đi tìm một
minh sư khác để tham vấn. Con không thay đổi thì suốt một đời ở bên thầy
cũng chỉ vô ích mà thôi. Làm sao thấy được vòm trời giải thoát chứ!"
Nói rồi thầy bỏ đi. Thanh Thị thấy không khí im quá, biết là thầy không
còn đứng ngoài cửa phòng mình. Thanh Thị thắc mắc không hiểu thầy đi đâu
và làm gì. Chú bước ra, tìm thầy. Thầy không có trong chùa. Thầy đã đi
ra ngoài. Chú bước ra cổng chùa nhìn hai bên thì thấy thầy đang cầm chổi
quét ở xa xa. Thầy quét về hướng chợ. Chú bặm môi, rồi cắn răng chạy vào
phòng mình, ôm mặt khóc như một đứa trẻ. Thầy đã quét chợ như cha chú đã
làm trước đây. Thầy muốn chứng minh cho chú thấy rằng việc quét chợ
không có gì xấu mà còn là một hạnh nguyện cao cả chỉ có cha chú mới làm
nổi. Nhưng, sự cố gắng của thầy không mang lại kết quả gì. Chú vẫn không
sao chấp nhận được hành vi quét chợ cho dù thầy có khoác lên đó bao
nhiêu ý nghĩa cao đẹp.
Khi thầy quét chợ về, cất chổi dưới bếp, chú đón lạy thầy ngay ở thềm
bếp, năn nỉ:
"Lạy thầy, xin thầy đừng vì con mà phải nhọc đến thân tâm như thế. Xin
thầy đừng làm vậy nữa, con không chịu nổi."
Thầy không nói. Ngày mai thầy lại tiếp tục quét chợ. Chú lại lạy lục xin
thầy chấm dứt. Thầy kiên quyết:
"Ta chỉ ngưng khi nào con thực sự đốt cháy được cái mặc cảm và ý nghĩ
cho rằng quét chợ là việc xấu hay thấp hèn. Con không thay đổi, sẽ không
giải thoát, sẽ không tìm thấy an lạc cho dù đang khoác mặc tăng bào. Và
nếu con không thay đổi, ta sẽ quét chợ cho đến khi nào ta nhắm mắt mới
thôi."
Thầy tiếp tục quét. Thanh Thị vẫn không thay đổi mà còn đau khổ hơn. Đến
nỗi, chú bỏ thầy mà đi, chỉ ghi lại vài dòng vắn tắt rằng chú muốn đi
tham học ở phương xa.
Chú đi xa thật xa khỏi nơi chốn sinh ra và trưởng thành của mình để xóa
đi bao hình ảnh, bao ý nghĩ đau buồn về thân phận. Chú tìm tới nhiều vị
thầy để học hỏi, nhưng không vị thầy nào đả thông được những mặc cảm của
chú. Một hôm, nghe đến danh tiếng của một vị thiền sư tên là Đại Ngốc,
chú tức tốc tìm đến vị này để học đạo vì chú hy vọng rằng ông ta cũng
mang một cái tên không được tao nhã, có thể ông ta sẽ có thuốc hay để
chữa căn bệnh mặc cảm của chú. Chú nghĩ có lẽ đằng sau cái tên của vị
thiền sư này cũng mang một quá khứ nếu không đau xót như chú thì cũng
cay chua buồn cười chứ chẳng không.
Thiền sư Đại Ngốc ẩn cư trong một am tranh trên núi cao. Khi lên tới
nơi, chú thấy một cái bảng nhỏ treo trên một thân cây: "Đại Ngốc Am".
Chú bước vào đảnh lễ thiền sư, hỏi ngay:
"Bạch thầy, làm sao có thể gột bỏ được một danh từ chỉ đem lại cho mình
những buồn phiền, khổ đau?"
"Nó chỉ là một tên gọi giả tạo thì cần gì phải gột bỏ!"
"Nhưng... rõ ràng là nó đeo bám và gợi lên bao điều đau xót cho con từ
nhiều năm nay."
"Đeo bám chỗ nào? Gợi lên cái gì? Ở đâu? Nói ta nghe!"
Thanh Thị hốt nhiên giác ngộ lẽ sinh diệt huyễn hóa của muôn sự muôn
vật, liền sụp lạy thiền sư mà về. Chú đi ngày đêm không dừng nghỉ, những
mong về quỳ dưới chân thầy mà sám hối.
*
Từ hai năm rồi, khi Thanh Thị bỏ chùa mà đi, thầy Hải Chấn cứ mang chổi
ra quét sân chùa rồi quét luôn tới chợ. Ban đầu thầy quét chỉ để thức
tỉnh Thanh Thị, nhưng khi quét, thầy cảm nhận được nhiều ý nghĩa cũng
như công dụng tu tập ngay trong chính sự việc quét chợ đó. Thầy tập
trung tâm mình vào từng động tác quét, lắng nghe tiếng chổi khua nhẹ
trên đất, nhìn ngọn chổi vờn trên cỏ rác... không phút giây nào mà không
lắng lòng vào việc quét. Đến độ, thầy với cây chổi chỉ là một. Vì vậy,
âm thanh náo loạn của chợ búa không ảnh hưởng, không tổn hại gì đến tự
tâm thanh tịnh của thầy. Chính trong loạn động thầy tìm thấy sự tịch
lặng. Và thầy có thể an lạc trong chính việc quét chợ tầm thường hàng
ngày. Trong khi đó, hình bóng của thầy, việc quét dọn của thầy giữa chợ
đời cũng làm cho khu chợ sạch sẽ hơn, bớt huyên náo xô bồ, và người ta
cũng bớt cạnh tranh cãi vả nhau. Mỗi lúc thấy thầy quét đến chợ, người
ta bỗng dưng giảm chuyện nói năng, có nói thì nói nhỏ giọng xuống. Đức
độ của thầy làm thay đổi không khí chợ một cách rõ rệt.
Hôm nay thầy đang quét đến giữa chợ, bỗng có người nắm lấy cây chổi của
thầy, nói với giọng cung kính:
"Bạch thầy, thầy hãy về nghỉ ngơi để con quét thay thầy."
Thầy ngưng tay ngước nhìn và thấy Thanh Thị. Khuôn mặt của chú ấy không
còn dấu vết của mặc cảm, khổ đau và phiền não. Thầy mỉm cười trao chổi
cho chú quét, và thầy bước theo chú, từng bước chậm.
Từ đó, cứ mỗi sáng, người ta thấy hai thầy trò tu sĩ cùng quét đường,
quét chợ. Bóng dáng họ xuất hiện nơi đâu, sự an lạc lan tỏa ra đến đó.
Hai năm sau, thầy Hải Chấn viên tịch. Trước khi từ giã cuộc đời, thầy
gọi Thanh Thị đến bên thiền sàng, trao cho Thanh Thị cây chổi mà thầy
thường dùng để quét chợ hàng ngày:
"Đời thầy mấy mươi năm học đạo không ngờ đến tuổi xế chiều mới tìm thấy
được đạo lớn từ cây chổi tầm thường này. Đây là tất cả công phu và ý chỉ
của thầy. Con hãy giữ lấy mà đi cho trọn con đường của con."
Nói rồi thầy hóa. Thanh Thị cất cây chổi đó trong phòng riêng của mình
như một kỷ vật ghi lại hình ảnh cao đẹp của cha, của mẹ, và nhất là của
thầy mình.
Sáng hôm sau, Thanh Thị vẫn cứ quét chợ. Người ở chợ thấy Thanh Thị quét
một mình thì biết rằng thầy Hải Chấn đức độ khả kính của họ đã mất.
Thanh Thị quét chợ cho đến tuổi già. Mấy mươi năm không hề xao lãng. Bây
giờ Thanh Thị đã trở thành một vị hòa thượng đạo đức thanh cao, nổi
tiếng với cây chổi và hạnh nguyện quét chợ. Hải Thanh quét chợ sáu năm.
Hải Chấn quét chợ bốn năm. Riêng Thanh Thị thì quét chợ đến sáu mươi
năm. Bao khuôn mặt mới có cũ có, thay nhau ngồi bán hoặc đi mua sắm ở
khu chợ, không ai mà không biết đến Thanh Thị quét chợ. Hình ảnh Thanh
Thị đã trở nên quen thuộc và gắn liền với khu chợ khiến cho mọi người
nẩy ý lấy tên vị hòa thượng này để đặt cho khu chợ: chợ Thanh Thị—một
cái chợ sạch. Ngày Thanh Thị ngưng quét thì tuổi đã tám mươi tư. Ngày
ấy, bầu trời u ám. Ngoài khu chợ, cỏ rác đầy mà chẳng thấy tăm dạng
Thanh Thị đâu. Chợt nghe chuông chùa vẳng lại ba hồi buồn bã. Mọi người
ở khu chợ bỗng sa lệ vì biết rằng vị hòa thượng già mang tên Thanh Thị sẽ không bao giờ cầm chổi ra quét chợ này nữa. Cả người bán lẫn khách
mua đều sụt sùi khóc.
Subscribe to:
Posts (Atom)