Popular Posts

Friday 22 July 2011

NGƯỜI QUÉT CHỢ

Một câu chuyện thật cảm động và súc-tích:              
  "Nhớ dâng trà cúng sư thúc và dì Linh nghe con?" thầy nhắc chú tiểu khi 
  thấy chú sửa soạn lên chánh  điện để cúng ngọ.                           
  "Bạch thầy, con nhớ," chú đáp.                                         
  Đó  là  câu  mà thầy cứ nhắc chú mỗi ngày trước mỗi thời kinh. Chú chẳng
  biết  sư  thúc là ai, dì Linh là ai. Trên chiếc bàn thờ nhỏ đặt cạnh bàn
  Tổ, chú chỉ thấy hai cái bài vị được viết bằng chữ Hán chứ chẳng có hình
  ảnh  gì  cả. Vì thầy nhắc mãi nên chú không lúc nào quên, vậy mà thầy cứ
  nhắc.  Nghe  nhắc  hoài,  ban  đầu chú hơi bực mình, nhưng riết rồi cũng
  quen. Và khi chú rót trà cúng cho hai người đó, chú cũng làm như một cái
  máy chứ không suy nghĩ gì. Chùa chỉ có một thầy một trò, nên thầy thương
  chú lắm và chú cũng quí kính thầy vừa như cha mẹ, vừa như thầy, và thỉnh
  thoảng  như  một người bạn đạo. Chú không có tên thế tục. Chú chẳng hiểu
  lý  do vì sao. Có lẽ vì chú sống ở chùa từ nhỏ nên thầy đã không đặt tên
  thế  tục  cho chú mà chỉ đặt cho chú một pháp danh là Thanh Thị. Chú lớn
  lên  ở  trong chùa, quen với tên gọi mà thầy đặt cho, chẳng thắc mắc gì.
  Nhưng  đến  khi được thầy dạy cho học chữ Hán, chú mới hiểu được cái tên
  đọc  nghe như tên con gái của mình lại có một ý nghĩa kỳ cục, không được
  thanh  nhã cho lắm. Nó có vẻ như được đặt ra để đánh dấu một kỷ niệm nào
  đó  của  thầy, hoặc cho chính chú. Chú băn khoăn suy nghĩ mãi về ý nghĩa
  của  cái  tên mà mình đeo mang. Nhân lúc cùng thầy nhổ cỏ sau vườn chùa,
  chú hỏi:                                                               
  "Bạch thầy, tại sao thầy đặt tên con là Thanh Thị?"                     
  "Vì thầy thích đặt như vậy," thầy chú thản nhiên trả lời.               
  "Lâu  nay con tưởng rằng chữ thị có nghĩa là đây, như vầy, giống như chữ
  thị trong như thị, đích thị hoặc chữ thị như trong biểu thị, thị hiện...
  nhưng  mới  hôm qua, thầy viết tên con bằng chữ thị có nghĩa là chợ. Con
  không  rõ  là tên con sao lại có cái nghĩa không được hay. Xin thầy giải
  thích cho con."                                                         
  Thầy nghiêm giọng nói:                                                 
  "Chỉ là tên gọi thôi, có gì mà phải bận tâm, nhổ cỏ đi."               
    Chú cúi xuống nhổ cỏ tiếp, nhưng được một lúc, chú lại hỏi:           
  "Con  biết  đó  chỉ là tên gọi thôi, nhưng tên gọi cũng phải nói lên một
  cái gì, một ý nghĩa gì chứ."                                           
  "Thì chợ cũng là một cái gì, một ý nghĩa gì rồi đó," thầy đáp.         
  "Con thấy chợ chỉ có ý nghĩa là dơ, ồn ào, phức tạp... toàn là xấu không
  à.  Con  không  tìm ra được ý nghĩa nào hay đẹp ở trong nó. Khi thầy đặt
  tên  con,  chắc chắn là thầy có nghĩ đến một ý tưởng hay một hình ảnh gì
  đó về cái chợ, phải không, bạch thầy?"                                 
  "Nhiều chuyện quá," thầy nói, "nhổ cỏ đi."                             
  Chú  im  lặng  nhổ cỏ, không dám hỏi nữa. Nhưng trong đầu óc chú bắt đầu
  nẩy  ra  những  suy  tưởng,  những phán đoán về sự đặt tên của thầy. Chú
  nghĩ,  năm  nay  chú  đã  mười sáu tuổi rồi, có thể nói là chú đủ trưởng
  thành  để  nghe thầy kể về lai lịch của chú. Lâu nay mỗi lần chú hỏi đến
  vấn đề đó, thầy chỉ nói là chú chưa trưởng thành, chưa đến lúc cần biết.
  Nhưng dù thầy chẳng nói ra, chú cũng không đến nỗi ngu độn để không biết
  rằng  chú  là  một đứa bé mồ côi. Ai cũng có cha mẹ, riêng chú không có.
  Cái  thực  tế đó làm gì thầy che giấu được. Nhưng tại sao lại đặt tên là
  Thị,  có  nghĩa  là  chợ? Có lẽ... có lẽ cha hay mẹ của chú là người bán
  hàng  ngoài  chợ,  hoặc  là người chủ chợ. Nhưng ba mẹ chú đâu mà để cho
  thầy  phải  đặt  tên?  Cũng  có thể mẹ chú đi ngang chợ thì sinh ra chú.
  Không,  nếu mẹ chú sinh ra chú ở chợ thì cũng đem về nhà, và chú vẫn còn
  người  mẹ  đó  chứ chú đâu có mồ côi để cho thầy phải đặt tên! Hay là...
  hay  là  thầy lượm được chú ngoài chợ, đem về chùa nuôi cho đến ngày hôm
  nay? Chính vì kỷ niệm đó mà thầy đặt tên cho chú là Thị (chợ)?         
  "Bạch  thầy..." chú không ngăn được nỗi háo hức tìm hiểu thân phận mình,
  lại mở miệng hỏi.                                                       
  "Gì nữa đây?" thầy không nhìn chú.                                     
  "Có  phải... có phải con là đứa con rơi thầy lượm ở ngoài chợ đem về hay
  không?"                                                                 
  Thầy ngưng tay nhổ cỏ. Im lặng một lúc, thầy tiếp tục nhổ, vừa nói:     
  "Nhổ cỏ."                                                               
  Đến chiều, sau giờ ăn cháo, thầy gọi chú cùng dạo sân với thầy. Hai thầy
  trò tản bộ cho đến vườn sau, nơi có hai ngôi mộ mà thỉnh thoảng chú thấy
  thầy  ra thắp hương. Một cái mộ thì chú biết là của sư thúc chú, còn cái
  còn lại chú chẳng biết của ai và cũng không để ý lắm.                   
  "Con đã dâng trà cho sư thúc và dì Linh lúc công phu chiều rồi hả?" thầy
  hỏi.                                                                   
  "Bạch thầy, rồi," chú trả lời như máy.                                 
  Thầy nhặt mấy chiếc lá nằm trên mộ sư thúc, nhổ vài bụi cỏ mới mọc quanh
  hai ngôi mộ. Rồi thầy bắt  đầu kể chuyện cho chú nghe.                 
                                      *                                   
  Thầy  Hải  Chấn  đang  ngồi đọc sách thì Hải Thanh, sư đệ của thầy, bước
  vào, mặt buồn dàu dàu. Hải Chấn hỏi:                                   
  "Gì mà sư đệ có vẻ rầu lo vậy?"                                         
  Hải Thanh buồn bã đứng nhìn ra cửa sổ một lúc rồi nói:                 
  "Đệ... đã phạm giới..." Hải Thanh nói đến đó thì rơi nước mắt.         
  Hải Chấn kéo tay sư đệ ngồi xuống, vỗ về:                               
  "Có trầm trọng lắm không? Đệ đã sám hối chưa?"                         
  "Đã  sám  hối. Nhưng đó là cho tự tâm. Không giải quyết gì được cho hoàn
  cảnh."                                                                 
  "Chuyện gì vậy? Nói đi, để xem huynh có thể giúp gì cho đệ không."     
  "Huynh đừng trách mắng đệ nghe..."                                     
  "Phạm tội thì sám hối; huynh trách mắng có thay đổi gì được đâu! Nói đi,
  đừng chất chứa trong lòng," Hải Chấn nói với giọng đầy cảm thương.     
  Hải Thanh đưa hai tay ôm lấy đầu, mặt gục xuống bàn, nói:               
  "Cô ấy đã có mang."                                                     
  Hải Chấn sửng sốt một lúc, rồi thở dài, hỏi:                           
  "Cô ấy là ai vậy?"                                                     
  "Sư huynh không biết đâu. Cô ấy không hề đến chùa mình."               
  "Vậy làm sao đệ quen để đến nỗi..."                                     
  "Thôi, huynh hỏi làm gì chuyện đó cho mệt. Bây giờ, đệ chỉ hỏi huynh một
  điều là đệ phải làm sao đây?"                                           
  Hải  Chấn  nhíu mày, thấy khó xử. Theo luật, Hải Thanh đã phạm một trong
  các  tội  Ba-la-di,  tức  những trọng giới mà đương sự bị coi như mất cả
  giới  thể,  không  còn  là  tỳ-kheo  thanh tịnh nữa, không thể chữa được
  nữa—như  cây  dừa, cây cau, đã chặt đi khúc đầu (đoạn đầu) thì không thể
  mọc lại tàu lá mới. Đã tới nước đó thì Hải Chấn biết góp ý với Hải Thanh
  điều gì nữa. Hải Chấn thở dài nói:                                     
  "Huynh  cũng chẳng biết phải góp ý với đệ làm sao. Chuyện không đơn giản
  đâu. Đệ phải nói rõ sự việc may ra..."                                 
  Hải Thanh ngập ngừng lúc lâu rồi kể:                                   
  "Cũng  vì cái hạnh quét chợ mà đệ vướng phải nghịch cảnh này. Huynh cũng
  biết mà, mỗi sáng đệ quét từ sân ra tới chợ, mặc ai cười ai chê, đệ quét
  thì  cứ quét, vừa quét vừa quán niệm về sự cấu bẩn của thế gian và thanh
  tịnh  của niết bàn... năm này qua năm nọ, mưa hay nắng, đệ cũng không bỏ
  ngày nào. Thế rồi... cô ấy lưu ý đến đệ. Và... một ngày nọ, đệ sa ngã." 
  "Buồn thay cho đệ. Cô ấy bán ngoài chợ à?"                             
  "Không, cô chỉ đi ngang chợ thôi."                                     
  "Vậy  bây  giờ gia đình cô ấy đã biết rằng chính đệ đã làm... cái chuyện
  gì đó chưa?"                                                           
  "Chưa, cô ấy không nói ra là ai. Nhưng... có lẽ có ngày họ cũng biết. Mà
  họ có biết hay không thì... mình cũng phải tự liệu."                   
  "Tự liệu?"                                                             
  "Ý đệ nói là mình phải giải quyết vấn đề đó bằng cách đến nói chuyện với
  gia  đình cô ấy, xin hỏi cưới cô ấy, hoặc là... đệ cùng cô ấy trốn đi xa
  để khỏi mang tai tiếng cho gia đình cô ấy và cho chùa nữa."             
  "Nghĩa là đệ sẽ hoàn tục?"                                             
  "Chứ biết sao bây giờ. Huynh có cách gì hay hơn không?"                 
  Hải  Chấn  ứa  nước  mắt, thương sư đệ mình gặp nghịch duyên đến phải bỏ
  đường  tu,  nhưng chẳng biết phải giúp bằng cách nào. Hải Chấn ngồi lặng
  thinh. Một chặp, Hải Chấn nói:                                         
  "Huynh  chẳng  biết  cách  nào  hết, mong đệ tha thứ cho sự chậm lụt của
  huynh.  Huynh  nghĩ  chắc  phải làm theo một trong hai cách mà đệ nêu ra
  thôi.  Mà  cho  dù  chọn giải pháp nào, huynh cũng xin lưu ý đệ một điều
  rằng đệ nên giải bỏ hình thức tăng sĩ trước khi..."                     
  "Đệ hiểu."                                                             
  Hai huynh đệ im lặng, mỗi người một dòng suy tưởng.                     
  Hải  Chấn  nhớ  lại bao kỷ niệm mà thầy cùng Hải Thanh trải qua nơi ngôi
  chùa  này  từ thuở còn để chóp đến nay. Hải Thanh thông minh, nhanh nhẹn
  mà  lại  siêng năng nên cái gì cũng vượt qua mặt sư huynh. Nhưng đến khi
  sư  phụ sắp viên tịch, sư phụ lại giao trọng trách trụ trì cho Hải Chấn.
  Lúc  đó  Hải Chấn đã không nhận vì cho rằng sư đệ vượt trội hơn mình quá
  nhiều.  Hải Thanh cũng không chịu nhận chức trụ trì, còn sư phụ thì nhất
  quyết  phải giao chức ấy cho Hải Chấn dù Hải Chấn học hành chậm lụt. Rốt
  cuộc Hải Chấn phải nhận. Giờ ra đi, sư phụ không nói gì nhiều ngoài việc
  khuyên răn hai huynh đệ nương nhau tu tập, và những lời cuối cùng của sư
  phụ  đều  nhắm vào Hải Thanh, cảnh giác Hải Thanh là không nên chú trọng
  vào sở kiến sở văn mà bỏ quên phần tu tập. Sau khi sư phụ mất, Hải Thanh
  thức  tỉnh,  nỗ lực hành trì, không bao giờ chểnh mảng. Rồi một ngày đó,
  Hải  Thanh  bỗng phát nguyện quét luôn cả chợ thay vì chỉ quét sân chùa.
  Hải  Chấn  không ngăn cản chi hạnh nguyện của sư đệ mình vì nghĩ rằng đó
  cũng là hạnh tốt thôi. Hải Thanh cho rằng hình ảnh người tu sĩ hiền lành
  nhẫn  nại  có  mặt nơi phố chợ đông người sẽ cảm hóa và gây được tín tâm
  cho  nhiều  người.  Ngoài ra, quét chợ cũng là một cách tu luyện cho tâm
  được định tĩnh ngay giữa chốn náo động. Không ngờ, chính hạnh nguyện cao
  đẹp đó lại đốn ngã Hải Thanh trong một nghịch duyên đau xót.           
  Hải Thanh không ôn lại kỷ niệm xưa mà chỉ ưu tư vấn đề xảy ra trước mắt.
  Hải  Thanh  nhớ đến Thùy Linh, cô gái đã có mang với mình. Cô ấy rất đẹp
  và  là  một  tiểu  thư con của quan huyện. Với sự thông minh vốn có, lại
  thêm  sự  giúp đỡ bày mưu của cô nữ tì, cô ấy đã tạo đủ điều kiện để lôi
  kéo Hải Thanh ngã vào vòng tay mình. Từ những phút đầu Hải Thanh đã biết
  mình  rơi vào lưới tình, nếu không thức tỉnh quay lại ngay với thiền môn
  thì  khó bề giữ gìn được đạo hạnh của mình, nhưng bóng sắc lộng lẫy kiêu
  sa  của nàng đã không để cho Hải Thanh chùn bước mà còn kéo thầy lậm sâu
  thêm  vào cơn men ái dục. Bây giờ chuyện đã lỡ rồi, không cưỡng lại được
  nữa.  Hải Thanh muốn rủ Thùy Linh cùng bỏ huyện này trốn đi với mình qua
  xứ khác sinh sống và cũng để tránh tiếng cho cả đôi bên, nhưng Thùy Linh
  không  dám.  Nàng  đã  ở lại để rồi không che dấu được cái thai càng lúc
  càng  lớn.  Nàng đã bị cha đánh đập, mắng chửi dữ dội. Hải Thanh nghe nữ
  tì  nói  lại  như vậy nhưng chẳng biết phải làm sao. Nhiều lúc Hải Thanh
  muốn  lẻn  vào tư dinh quan huyện để cứu nàng ra khỏi đó, nhưng lính gác
  canh  phòng  nghiêm  mhặt, không cách gì vào được. Dù đã từng xem thế sự
  như  một  giấc  mộng hư huyễn, trước tình cảnh đau xót mà Thùy Linh phải
  hứng chịu, Hải Thanh không khỏi nghe tan nát trong lòng.               
  Đêm  đó, hai huynh đệ ngồi thức trắng bên bàn sách. Đến lúc mờ sáng, Hải
  Thanh  mới  rời phòng sách vào phòng riêng, lấy khăn chít lấy đầu để che
  dấu  cái  đầu tròn tu sĩ của mình, thay đổi y phục như một người thế tục
  rồi từ giã Hải Chấn mà đi. Hải Chấn hỏi:                               
  "Đệ đi đâu vậy?"                                                       
  "Đến tư dinh quan huyện nói chuyện thẳng với cha cô ấy."               
  "Sao  huynh  thấy ái ngại cho chuyến đi này của đệ quá. Thấy có gì không
  ổn. Đệ liệu có thể thuyết phục được cha mẹ cô ấy không?"               
  Hải  Thanh không đáp, chỉ nhún vai rồi đi. Hải Chấn níu lại, dúi vào bọc
  vải của sư đệ một túi tiền nhỏ:                                         
  "Đó là tiền riêng của huynh, không phải của chùa đâu, đừng ngại. Đệ mang
  theo để có gì..."                                                       
  "Cám  ơn  huynh. Đệ đi đây. Nếu có tin tốt đẹp, đệ sẽ cùng Thùy Linh ghé
  thăm huynh trước khi rời xứ này."                                       
  Và  Hải  Thanh đi luôn, không trở lại. Hải Chấn bồn chồn lo lắng suốt cả
  ngày  và đêm hôm đó. Sáng hôm sau, khi Hải Chấn ra vườn thì thấy xác Hải
  Thanh nằm ở trước sân chùa, thân thể tím bầm vì bị đánh đập đến tắt thở.
  Hải  Chấn  đến khiếu nại với quan huyện nhưng huyện đường đóng cửa, lính
  gác  xua thầy về. Thầy đành ngậm ngùi chôn xác sư đệ sau vườn chùa. Nghĩ
  rằng có làm to chuyện lên thì sư đệ nhắm mắt cũng không được yên.       
  Hai tháng sau, Thùy Linh sinh hạ một bé trai. Nửa đêm nàng lẻn trốn khỏi
  dinh,  mang  con ra chợ, ngồi nơi sạp hàng mà ôn lại chuyện xưa khi nàng
  đi ngang đây và bắt gặp nhà sư quét chợ lạ kỳ. Nàng ngồi giữa trời sương
  cho đến sáng thì chết, tay vẫn còn ôm đứa bé sơ sinh đang khóc.         
  Quan  huyện  lâu  nay cố che dấu chuyện con gái mình nhưng nay, cái chết
  của Thùy Linh ngay giữa chợ đã làm cho câu chuyện nhanh chóng truyền đi;
  ông  bực dọc và căm giận đến độ sai lính treo bảng thông báo rằng ông đã
  từ  đứa con trắc nết phá hoại gia phong, rằng ông không chịu trách nhiệm
  về  cái  chết  của  Thùy Linh cũng như không chấp nhận đứa con của người
  quét  chợ.  Thông  cáo của ông có vẻ như ngầm phán rằng đứa bé phải chịu
  chết giữa chợ đời, không ai được phép cứu nó. Vì uy quyền hống hách cũng
  như sự giận dữ của quan huyện, không ai dám mang đứa bé sơ sinh về nuôi.
  Người  ta  gỡ đứa bé khỏi vòng tay lạnh giá và cứng đờ của mẹ nó rồi đặt
  nó  nằm trong một chiếc nôi, để giữa chợ để chờ kẻ nào động lòng trắc ẩn
  đến mang nó đi. Những người đàn bà bán hàng ngoài chợ đã chăm lo sữa cho
  đứa  bé  suốt  ngày đó, nhưng cũng không ai chịu nhận đứa bé về. Còn xác
  Thùy  Linh  thì  được  quấn sơ sài bằng một cái chiếu, đặt ở gần đó. Đến
  chiều  tối  thì  chuyện  đến  tai Hải Chấn. Thầy liền tức tốc ra chợ, ôm
  chiếc  nôi  nhỏ  mang  về  chùa. Còn xác Thùy Linh, thầy bảo những người
  phật-tử bán hàng ở chợ giúp đem về chùa chôn. Ấy vậy mà quan huyện không
  dám  động đến Hải Chấn vì cả nể đức hạnh và uy tín của thầy. Đứa bé được
  yên thân sống và lớn lên trong cửa chùa.                               
                                      *                                   
  Nước  mắt  ràn rụa trên hai gò má bầu bĩnh, chú tiểu Thanh Thị quì xuống
  chân thầy:                                                             
  "Tạ ơn thầy cứu sống và nuôi dưỡng con."                               
  Thầy đỡ chú dậy, nói tiếp:                                             
  "Sư  thúc  của con có linh vị thờ trong chùa mà thầy thường nhắc con rót
  trà dâng cúng chính là Hải Thanh cha của con đó. Sư thúc với thầy tu học
  với  nhau  từ  nhỏ  nên ngoài tình đạo bạn còn coi nhau như anh em ruột.
  Chuyện  của sư thúc khiến thầy đau lòng quá mà không biết giúp bằng cách
  nào.  Nuôi  dưỡng  con  chỉ là một chuyện nhỏ để biểu lộ sự mến tiếc của
  thầy đối với sư thúc thôi. Huống chi, làm sao thầy có thể bỏ mặc một đứa
  trẻ kêu khóc không người đoái hoài..."                                 
  Chú tiểu Thanh Thị bây giờ đã hiểu vì sao chú có cái tên lạ kỳ đó: Thanh
  là tên của cha chú còn Thị chính là chợ, là nơi ghi lại kỷ niệm chua xót
  đầu đời của cha chú, mẹ chú, và cả chú nữa.                             
  "Vậy quan huyện hiện nay chính là ông ngoại của con hở, bạch thầy?"     
  "Không. Ông và phu nhân đều đã qua đời. Quan huyện hiện nay là người mới
  được bổ nhiệm."                                                         
  "Vậy những người ở ngoài chợ... đều biết chuyện của con hở thầy?"       
  "Mười  sáu  năm rồi, nhiều người đã dọn đi xứ khác, nhiều người đã chết,
  chỉ còn lại rất ít người là biết chuyện của con, nhưng chắc họ cũng quên
  khuấy  đi rồi. Mà sao con hỏi vậy? Con không muốn người ta biết rằng con
  đã xuất thân từ đâu, phải vậy không?"                                   
  "Bạch thầy không phải, không phải."                                     
  "Như vậy thì tốt. Nhân cách không nằm ở chỗ xuất thân từ đâu mà từ chính
  giá trị thực có của mình."                                             
  "Dạ, con biết," chú cúi mặt nói nhỏ.                                   
  Theo  như  lời  thầy  kể,  rồi nhìn hai ngôi mộ song song trước mặt, đọc
  những  chữ  Hán  viết trên mộ bia, chú thấy rõ đó chính là song thân của
  mình.  Chú  quỳ  xuống  nhìn thật lâu nơi hai mộ bia, lặng người một lúc
  lâu, chú bật khóc thảm thiết.                                           
  Vậy  đó  mà chú vẫn không sao tẩy xóa được nỗi mặc cảm đè nặng trong tâm
  khảm  mình:  rằng  chú là một đứa trẻ vô thừa nhận, được sinh ra bởi một
  người  cha tu sĩ phá giới, một người mẹ khuê các phá gia phong; rằng chú
  bị bỏ rơi giữa chợ đời như một tội nhân tử hình ngay từ lúc sơ sinh. Bao
  nhiêu ý nghĩ đó ám ảnh chú suốt mấy ngày kế tiếp sau khi nghe thầy kể rõ
  sự  tình. Thầy theo dõi từng biến động tâm tư hiện trên mặt chú, bèn gọi
  chú hỏi chuyện:                                                         
  "Con  sẽ mang buồn cho đến bao giờ? Có sinh tức có diệt, sao phải ôm mãi
  nỗi đau khổ biệt ly như thế!"                                           
  Chú  lặng  thinh  không đáp lời thầy. Thầy biểu lộ tình cảm, lấy tay xoa
  đầu chú:                                                               
  "Thương  cha mẹ, con rán tu học để cha mẹ vui lòng. Cha con là một tu sĩ
  thông  minh,  có  tuệ căn, làu thông kinh điển. Chỉ một phút yếu lòng mà
  đánh  mất  sự nghiệp cao cả. Con có thương cha thì nối tiếp sự nghiệp đó
  mới  phải,  sao cứ ôm lòng buồn rầu mãi. Con đến rót trà dâng ba đi, rồi
  lên tụng kinh."                                                         
  Chú cúi mặt bặm môi một chặp, bỗng ngước lên nói:                       
  "Chỉ có thầy mới là cha con thôi. Ông ấy không phải là cha con!"       
  Nói rồi chú vụt đứng dậy, bỏ đi vào phòng riêng, đóng cửa lại. Thầy sững
  sờ  ngồi nhìn theo, lắc đầu buồn bã. Chú bỏ tụng kinh chiều hôm đó. Thầy
  lặng  lẽ đắp y áo, thắp hương, rót trà cho sư đệ Hải Thanh rồi thầy tụng
  kinh thay chú.                                                         
  Suốt  mấy ngày, chú vẫn không ra khỏi phòng. Thầy đến gõ cửa, gọi mãi mà
  không được. Mọi việc trong chùa thầy làm thay chú hết. Chú không ra khỏi
  phòng nên cũng nhịn ăn luôn cả mấy ngày. Hai thầy trò sống bên nhau mười
  sáu  năm  rồi,  chưa lần nào vào bữa ăn mà thiếu thầy hay thiếu trò. Cho
  nên,  khi  chú nhịn, thầy cũng nhịn theo, không buồn ăn nữa, chia xẻ nỗi
  đau  khổ  nặng  nề của chú. Đến ngày thứ tư, chú mới mở cửa bước ra, phờ
  phạc, bệnh hoạn. Chú đến quỳ dưới chân thầy và khóc nức nở. Thầy chỉ lấy
  tay xoa đầu chú.                                                       
  Hai  thầy trò bỗng dưng mà sống một cuộc sống lặng câm, buồn tẻ. Thầy để
  chú tự do trong những suy tưởng riêng tư chứ không gợi chuyện gì với chú
  cả. Không khí trong chùa vì vậy mà nặng nề. Cho đến một ngày nọ, sau khi
  cùng  làm  lễ  sám  hối  với thầy xong, chú mới cất được gánh nặng trong
  lòng. Chú thưa với thầy:                                               
  "Con đã sai lầm. Con không thể phủ nhận công ơn sanh thành của cha mẹ." 
  "Tốt,  con biết vậy là tốt. Mẹ con vì sinh mạng của con, vì muốn lưu giữ
  giọt  máu và hình bóng của cha con mà nhẫn nhục sống giữa bao lời xỉ vả,
  bao  trận  đánh đập của gia đình để chờ ngày sinh ra con. Mẹ con tuy phá
  gia phong nhưng, theo thầy, bà là người tinh mắt, thông minh, một phụ nữ
  đức  hạnh biết vượt lên cái hình thức bề ngoài để nhìn thấy được giá trị
  tinh  thần  nơi  cha  con. Còn cha con, tuy phạm cấm giới, nhưng biết ăn
  năn, biết trách nhiệm, đã can đảm bước vào tư dinh của ông ngoại con với
  ước  mong  là  cứu được hai mẹ con ra ngoài... và cha con đã chết vì dám
  đứng ra đối đầu với nguy hiểm. Với truyền thống, với tập tục, cả hai đều
  bị  lên  án.  Nhưng  họ đã chết một cách cao cả, ít nhất là đối với sinh
  mạng của con, phải không? Ở một khía cạnh nào đó, một hoàn cảnh đặc biệt
  nào  đó,  con sẽ thấy rằng cái mà người ta gọi là truyền thống, tập tục,
  gia  phong,  lễ  giáo  v.v... thật ra chẳng là gì cả. Rỗng tuếch! Chỉ có
  những tấm chân tình mới thực sự là có ý nghĩa mà thôi."                 
  "Dạ, con hiểu," chú nói trong giọng xúc động và tri ân thầy đã chỉ giáo.
  Chú  không dám coi thường cha mẹ mình nữa. Chú thăm mộ cha mẹ hàng ngày,
  chú rót trà dâng cha mẹ vào mỗi thời kinh. Sư thúc và dì Linh, chú không
  còn  gọi  hai tên đó nữa mà gọi bằng cha mẹ. Chú cảm thấy có cái gì ngọt
  ngào  và  khiến  chú ấm lòng khi gọi lên hai tiếng cha mẹ đó. Tuy nhiên,
  trên  thực tế, chú chỉ vui sướng sống trong tình cảm và vòng tay vô hình
  vô  ảnh của cha mẹ; còn đối với những mặc cảm về thân phận mình, chú vẫn
  không  sao  tẩy  xóa đi một cách thoải mái được. Đến nỗi khi đi ra đường
  với thầy, chú có cảm giác như mọi người đang nhìn mình, xầm xì, chỉ trỏ,
  bàn  tán  về  "người quét chợ". Từ đó, chú hết muốn ra khỏi chùa. Và đôi
  lúc, chú muốn cải đổi cái tên Thanh Thị mà chú mang. Chú thấy cái tên đó
  chỉ nhắc nhở chú về thân phận buồn tủi của chú mà thôi.                 
  Vì  thương  chú,  và  vì chưa biết cách nào giải tỏa mặc cảm của chú một
  cách hữu hiệu, thầy cũng chiều lòng chú, không sai chú ra ngoài nhiều và
  cũng tránh cho chú những dịp phải ra trước đám đông.                   
  Trải  qua bốn năm, với tuổi đời thêm lớn, với sự học hỏi giáo lý, với sự
  tu  tập  thiền  định, và với sự tiếp thọ đại giới để trở thành một vị tỳ
  kheo, chú dần dần thấy vơi đi những tình cảm lưu luyến xót xa cho chuyện
  tình thương tâm của cha mẹ. Nhưng cái mặc cảm sợ người khác biết rõ thân
  phận mình vẫn cứ đeo bám mãi trong lòng chú, không sao gột bỏ. Thầy biết
  vậy,  cố  gắng  tháo gỡ cái mặc cảm đó cho chú lần nữa bằng một cuộc nói
  chuyện sau thời tụng kinh khuya:                                       
  "Thanh  Thị,  con đã trở thành một vị đại đức, một vị lãnh đạo tinh thần
  xứng  đáng  cho  đồ chúng noi gương tu tập. Vậy mà thầy thấy con như vẫn
  còn  ôm  ấp  cái mặc cảm rằng mình thấp hèn, phải vậy không? Con nói đi,
  cái  gì  khiến  con nghĩ như thế? Con có biết rằng chỉ một cái phiền não
  nhỏ  nhặt còn sót lại trong tâm cũng đủ ngăn trở con tiến đến giải thoát
  hay không?"                                                             
  Thanh  Thị  không nói không rằng, lặng lẽ bỏ vào phòng. Thầy đến gõ cửa,
  đứng ngoài cửa nói vọng vào:                                           
  "Hãy  nhìn  kỹ  những gì thầy làm. Nếu việc thầy làm khiến con thấy thầy
  không  xứng  đáng là thầy của con nữa thì con hãy rời thầy mà đi tìm một
  minh sư khác để tham vấn. Con không thay đổi thì suốt một đời ở bên thầy
  cũng chỉ vô ích mà thôi. Làm sao thấy được vòm trời giải thoát chứ!"   
  Nói  rồi thầy bỏ đi. Thanh Thị thấy không khí im quá, biết là thầy không
  còn đứng ngoài cửa phòng mình. Thanh Thị thắc mắc không hiểu thầy đi đâu
  và  làm  gì. Chú bước ra, tìm thầy. Thầy không có trong chùa. Thầy đã đi
  ra ngoài. Chú bước ra cổng chùa nhìn hai bên thì thấy thầy đang cầm chổi
  quét ở xa xa. Thầy quét về hướng chợ. Chú bặm môi, rồi cắn răng chạy vào
  phòng mình, ôm mặt khóc như một đứa trẻ. Thầy đã quét chợ như cha chú đã
  làm  trước  đây.  Thầy  muốn  chứng minh cho chú thấy rằng việc quét chợ
  không  có gì xấu mà còn là một hạnh nguyện cao cả chỉ có cha chú mới làm
  nổi. Nhưng, sự cố gắng của thầy không mang lại kết quả gì. Chú vẫn không
  sao  chấp  nhận  được  hành  vi quét chợ cho dù thầy có khoác lên đó bao
  nhiêu ý nghĩa cao đẹp.                                                 
  Khi  thầy  quét  chợ về, cất chổi dưới bếp, chú đón lạy thầy ngay ở thềm
  bếp, năn nỉ:                                                           
  "Lạy  thầy,  xin thầy đừng vì con mà phải nhọc đến thân tâm như thế. Xin
  thầy đừng làm vậy nữa, con không chịu nổi."                             
  Thầy không nói. Ngày mai thầy lại tiếp tục quét chợ. Chú lại lạy lục xin
  thầy chấm dứt. Thầy kiên quyết:                                         
  "Ta  chỉ  ngưng  khi nào con thực sự đốt cháy được cái mặc cảm và ý nghĩ
  cho rằng quét chợ là việc xấu hay thấp hèn. Con không thay đổi, sẽ không
  giải  thoát, sẽ không tìm thấy an lạc cho dù đang khoác mặc tăng bào. Và
  nếu  con  không thay đổi, ta sẽ quét chợ cho đến khi nào ta nhắm mắt mới
  thôi."                                                                 
  Thầy tiếp tục quét. Thanh Thị vẫn không thay đổi mà còn đau khổ hơn. Đến
  nỗi,  chú  bỏ  thầy mà đi, chỉ ghi lại vài dòng vắn tắt rằng chú muốn đi
  tham học ở phương xa.                                                   
  Chú  đi xa thật xa khỏi nơi chốn sinh ra và trưởng thành của mình để xóa
  đi  bao hình ảnh, bao ý nghĩ đau buồn về thân phận. Chú tìm tới nhiều vị
  thầy để học hỏi, nhưng không vị thầy nào đả thông được những mặc cảm của
  chú.  Một  hôm, nghe đến danh tiếng của một vị thiền sư tên là Đại Ngốc,
  chú  tức  tốc  tìm đến vị này để học đạo vì chú hy vọng rằng ông ta cũng
  mang  một  cái  tên không được tao nhã, có thể ông ta sẽ có thuốc hay để
  chữa  căn  bệnh  mặc cảm của chú. Chú nghĩ có lẽ đằng sau cái tên của vị
  thiền  sư  này  cũng mang một quá khứ nếu không đau xót như chú thì cũng
  cay chua buồn cười chứ chẳng không.                                     
  Thiền  sư  Đại  Ngốc  ẩn cư trong một am tranh trên núi cao. Khi lên tới
  nơi,  chú  thấy  một cái bảng nhỏ treo trên một thân cây: "Đại Ngốc Am".
  Chú bước vào đảnh lễ thiền sư, hỏi ngay:                               
  "Bạch  thầy, làm sao có thể gột bỏ được một danh từ chỉ đem lại cho mình
  những buồn phiền, khổ đau?"                                             
  "Nó chỉ là một tên gọi giả tạo thì cần gì phải gột bỏ!"                 
  "Nhưng...  rõ  ràng là nó đeo bám và gợi lên bao điều đau xót cho con từ
  nhiều năm nay."                                                         
  "Đeo bám chỗ nào? Gợi lên cái gì? Ở đâu? Nói ta nghe!"                 
  Thanh  Thị  hốt  nhiên  giác ngộ lẽ sinh diệt huyễn hóa của muôn sự muôn
  vật, liền sụp lạy thiền sư mà về. Chú đi ngày đêm không dừng nghỉ, những
  mong về quỳ dưới chân thầy mà sám hối.                                 
                                      *                                   
  Từ  hai năm rồi, khi Thanh Thị bỏ chùa mà đi, thầy Hải Chấn cứ mang chổi
  ra  quét  sân  chùa rồi quét luôn tới chợ. Ban đầu thầy quét chỉ để thức
  tỉnh  Thanh  Thị,  nhưng khi quét, thầy cảm nhận được nhiều ý nghĩa cũng
  như  công  dụng  tu  tập  ngay trong chính sự việc quét chợ đó. Thầy tập
  trung  tâm  mình  vào  từng động tác quét, lắng nghe tiếng chổi khua nhẹ
  trên đất, nhìn ngọn chổi vờn trên cỏ rác... không phút giây nào mà không
  lắng  lòng  vào việc quét. Đến độ, thầy với cây chổi chỉ là một. Vì vậy,
  âm  thanh  náo loạn của chợ búa không ảnh hưởng, không tổn hại gì đến tự
  tâm  thanh  tịnh  của  thầy. Chính trong loạn động thầy tìm thấy sự tịch
  lặng.  Và  thầy  có thể an lạc trong chính việc quét chợ tầm thường hàng
  ngày.  Trong khi đó, hình bóng của thầy, việc quét dọn của thầy giữa chợ
  đời  cũng  làm cho khu chợ sạch sẽ hơn, bớt huyên náo xô bồ, và người ta
  cũng  bớt  cạnh tranh cãi vả nhau. Mỗi lúc thấy thầy quét đến chợ, người
  ta  bỗng  dưng giảm chuyện nói năng, có nói thì nói nhỏ giọng xuống. Đức
  độ của thầy làm thay đổi không khí chợ một cách rõ rệt.                 
  Hôm  nay thầy đang quét đến giữa chợ, bỗng có người nắm lấy cây chổi của
  thầy, nói với giọng cung kính:                                         
  "Bạch thầy, thầy hãy về nghỉ ngơi để con quét thay thầy."               
  Thầy  ngưng tay ngước nhìn và thấy Thanh Thị. Khuôn mặt của chú ấy không
  còn  dấu  vết của mặc cảm, khổ đau và phiền não. Thầy mỉm cười trao chổi
  cho chú quét, và thầy bước theo chú, từng bước chậm.                   
  Từ  đó,  cứ  mỗi sáng, người ta thấy hai thầy trò tu sĩ cùng quét đường,
  quét chợ. Bóng dáng họ xuất hiện nơi đâu, sự an lạc lan tỏa ra đến đó. 
  Hai  năm  sau,  thầy Hải Chấn viên tịch. Trước khi từ giã cuộc đời, thầy
  gọi  Thanh  Thị  đến bên thiền sàng, trao cho Thanh Thị cây chổi mà thầy
  thường dùng để quét chợ hàng ngày:                                     
  "Đời  thầy mấy mươi năm học đạo không ngờ đến tuổi xế chiều mới tìm thấy
  được đạo lớn từ cây chổi tầm thường này. Đây là tất cả công phu và ý chỉ
  của thầy. Con hãy giữ lấy mà đi cho trọn con đường của con."           
  Nói  rồi  thầy hóa. Thanh Thị cất cây chổi đó trong phòng riêng của mình
  như  một kỷ vật ghi lại hình ảnh cao đẹp của cha, của mẹ, và nhất là của
  thầy mình.                                                             
  Sáng hôm sau, Thanh Thị vẫn cứ quét chợ. Người ở chợ thấy Thanh Thị quét
  một mình thì biết rằng thầy Hải Chấn đức độ khả kính của họ đã mất.     
  Thanh Thị quét chợ cho đến tuổi già. Mấy mươi năm không hề xao lãng. Bây
  giờ  Thanh  Thị  đã  trở  thành một vị hòa thượng đạo đức thanh cao, nổi
  tiếng  với cây chổi và hạnh nguyện quét chợ. Hải Thanh quét chợ sáu năm.
  Hải  Chấn  quét  chợ  bốn năm. Riêng Thanh Thị thì quét chợ đến sáu mươi
  năm.  Bao  khuôn  mặt mới có cũ có, thay nhau ngồi bán hoặc đi mua sắm ở
  khu  chợ,  không ai mà không biết đến Thanh Thị quét chợ. Hình ảnh Thanh
  Thị  đã  trở  nên quen thuộc và gắn liền với khu chợ khiến cho mọi người
  nẩy  ý  lấy  tên vị hòa thượng này để đặt cho khu chợ: chợ Thanh Thị—một
  cái  chợ  sạch.  Ngày Thanh Thị ngưng quét thì tuổi đã tám mươi tư. Ngày
  ấy,  bầu  trời  u  ám.  Ngoài khu chợ, cỏ rác đầy mà chẳng thấy tăm dạng
  Thanh  Thị đâu. Chợt nghe chuông chùa vẳng lại ba hồi buồn bã. Mọi người
  ở  khu  chợ bỗng sa lệ vì biết rằng vị hòa thượng già mang tên Thanh Thị    sẽ  không  bao  giờ cầm chổi ra quét chợ này nữa. Cả người bán lẫn khách
  mua đều sụt sùi khóc.                                                   
                                                  

No comments:

Post a Comment