Popular Posts

Tuesday 31 May 2011

Đừng Bao Giờ...


 

 
Tôi ngồi ẩn mình dưới tàng cây rậm rạp sau sân chùa, tránh cái nắng oi ả của mùa hè. Hôm nay ngày thường, mọi người đi làm cả, cảnh chùa im lặng một cách trang nghiêm. Nhân tiện có công việc đi ngang qua chùa, tôi tạt vào viếng cốt và thắp cho ông bác một nén hương để tưởng nhớ đến bác mình. Tôi thường thích ngồi một mình yên lặng như thế, đầu óc như thể hồi mới sinh, mắt thấy cảnh, cảm nhận được hình ảnh nhưng chưa biết nói, trong đầu chưa có những biểu tượng tạo thành ý nghĩ hay tư tưởng! Những lúc như thế, tôi thấy tâm hồn có phần nào an lạc bình yên hơn.
 
Ngồi lơ đãng như vậy một lúc lâu, tôi chợt thấy bóng người đang lui cui dọn dẹp phía hông mé nhà kho. Để ý kỹ, tôi nhận ra đó là người đàn ông khoảng lứa tuổi ngoài 30 mà tôi thỉnh thoảng vẫn gặp làm công quả cho chùa. Mồ hôi người đàn ông đổ nhễ nhại dưới cái nóng bức của mùa hè, nhưng anh ta vẫn lẳng lặng làm không tỏ vẻ một chút nào khó chịu cả. Tôi ngồi nhìn anh ta làm việc, lòng thầm cảm phục.
 Người đàn ông bất chợt nhìn thấy tôi. Anh ta cười, vẫy tay chào.
 Tôi nói lớn:
 - Nghỉ tay, uống miếng nước đã!
 Người đàn ông khựng lại, ngẫm nghĩ, cúi xuống xách chai nước suối dưới đất rồi đi lại phía tôi ngồi.
 Tôi đứng lên, bắt tay tự giới thiệu tên mình.
- Chào anh, tôi là Minh.
 - Dạ, tôi tên Hiếu.
 - Hôm nay anh không phải đi làm à?
 
Tôi ngắm Hiếu trong khi chờ đợi câu trả lời. Tuy với làn da hơi rám nắng, cùng với một mái tóc cắt ngắn, Hiếu có một khuôn mặt sáng sủa dù ẩn hiện nhiều nét suy tư. Đôi bàn tay gầy gầy thanh nhã chứng tỏ không phải làm việc lao động nhiều.
 - Thưa anh không. Tôi nghỉ thứ Ba, không làm việc. Còn anh, sao hôm nay không đi làm à?
 - Tôi có vài công việc riêng cần phải làm nên lấy ngày nghỉ hôm nay. Xong việc, đi ngang chùa nên ghé vào đây thăm cốt ông bác. Tôi thỉnh thoảng đi chùa vẫn thấy anh. Anh chắc thường làm công quả ở đây đã lâu?
 - Dạ, cũng được vài năm, thưa anh. Sắp tới lễ Vu Lan rồi, tôi soạn lại nhà kho lấy những vật dụng cần thiết, để sẵn đó cho họ. Mỗi người một tay.
 - Ừ nhỉ. Anh không nhắc thì tôi cũng quên khuấy đi mất, rằm tháng 7 sắp tới rồi! Trông anh còn trẻ, chắc còn bà cụ?
 Hiếu chợt khựng lại, giọng nhỏ đi.
 - Thưa anh không. Mẹ tôi mất cách đây được vài năm.
 - Tôi xin lỗi.
 - Dạ, không hề chi.
 
Tôi ngẫm nghĩ, miệng nói thầm "Hiếu, Hiếu ...". Tôi đã có nghe ai đó nói tới cái tên này, và đang cố nhớ là đã nghe ở đâu.
 - A! Tôi có nghe mẹ tôi thỉnh thoảng nói ở chùa có một anh bác sĩ trẻ hay đến làm công quả, cho chùa tiền và chữa bệnh cho người đồng hương lấy tiền rất rẻ, gặp người nghèo thì chữa miễn phí, không biết có phải là anh không?
 Hiếu cười ngượng ngập.
 - Dạ, bà cụ anh nói quá lời. Tôi chỉ làm những gì khả năng cho phép.
 Tôi tiếp lời:
 - Mẹ tôi và mọi người ở đây quý mến anh lắm. Được một người trẻ công danh thành toại trong cộng đồng cũng là điều quý rồi, huống hồ thay vì hưởng thụ, vinh thân phì gia, anh còn nghĩ đến cộng đồng, giúp đỡ cộng đồng thì quá tốt. Tôi nói điều này bằng cả thực lòng, chẳng phải nói cho anh vui.
 - Dạ, cám ơn anh. Tôi cũng chỉ xin đóng góp phần nào mà thôi. Một mình tôi thì cũng chẳng làm gì được nhiều nếu không có những sự tiếp tay và góp sức của những người khác. Người cho $100, người cho $5 đồng, $10 đồng ... người làm trong nhà bếp, người chăm lo vườn, người lo giấy tờ thủ tục hành chánh v.v... một người thì chắc chắn không thể nào làm xuể được từng ấy công việc.
 Tôi đổi đề tài đối thoại, để cho Hiếu được thoải mái, hỏi về những khóa tu thiền sắp tới do chùa tổ chức, những lớp học tiếng Việt v.v...
Ngồi nói chuyện được một lát, Hiếu xin phép quay trở lại làm tiếp công việc dang dở, tôi bảo để tôi phụ một tay khuân dọn cho nhanh chóng, thêm phần có hai người vừa làm vừa nói chuyện đỡ nhàm chán hơn. Hiếu vui vẻ cám ơn tôi.
Công việc xong thì cũng khoảng 5 giờ chiều. Tôi từ giã Hiếu và hẹn gặp lại trong ngày Vu Lan.
 
o0o
 
 Khi tôi chở mẹ tôi tới thì chùa cũng đã có khá đông người. Một cô bé nhỏ tuổi mà tôi thường thấy trong gia đình Phật Tử của chùa chạy lại, chẳng cả hỏi, cài trên ngực áo tôi một bông đỏ rồi nhoẻn một nụ cười thật dễ thương chúc tôi may mắn còn mẹ.  Tôi mỉm cười sung sướng.
Mẹ tôi dặn dò tôi vài điều như sẽ về lúc mấy giờ, nếu muốn kiếm mẹ tôi thì có thể kiếm bà ở đâu... rồi vội vã đi về hướng nhà bếp để tiếp tay với những người bạn trong Ban Hộ Niệm của bà trong đó.
Tôi đảo mắt nhìn xung quanh, có những người mang đóa hoa đỏ cài trước ngực và có những người cài đóa hoa trắng, những người mà thân mẫu đã qua đời. Tôi chợt nhớ đến Hiếu, nhớ đến người bác sĩ trẻ hay làm công quả cho chùa. Tôi định bụng sẽ để ý kiếm Hiếu. Tôi đi vội về phía khán đài để giúp ban tổ chức văn nghệ khuân ghế ra cho khán giả ngồi và sắp đặt chương trình.
Không khí nhà chùa hôm nay đâu đâu cũng nhộn nhịp, mọi người cười nói vui vẻ. Tiếng thầy trụ trì đang sang sảng thuyết pháp vọng lại từ chính điện. Các em nhỏ trong ban vũ tíu tít gọi nhau để chuẩn bị cho chương trình văn nghệ. Những tà áo dài đủ mầu sắc thỉnh thoảng có dịp gì đó trong năm mới được mang ra mặc. Mọi người rạng rỡ trong ngày báo hiếu.
Khi trời trở chiều, tôi kiếm mẹ tôi, chở bà về lo nấu nướng để cúng bái ở nhà. Tôi vẫn chưa thấy Hiếu. Tôi chợt nhớ là người hẹn gặp nhau ở chùa là tôi và Hiếu chỉ cười, không nói.
 
o0o
 
Sau ngày Vu Lan tôi gặp Hiếu đôi lần ở chùa, những lúc như thế, chúng tôi thường thảo luận về các kinh điển nhà Phật. Hiếu có một trí nhớ rất dai, thuộc làu làu những câu kinh hoặc đoạn kinh. Tôi vốn thuộc loại "dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm", thuộc loại ưa ngủ chứ chẳng phải tướng học trò gì cả, chẳng nhớ gì nhiều. Nhưng có điều khi nghe Hiếu đọc các câu kinh, tôi hiểu thế nào nói ra như vậy khiến nhiều lúc Hiếu kinh ngạc và thường khen tôi là người có căn cơ, chắc những kiếp trước có tu tập gì rồi. Chúng tôi lại tưởng tượng ra những kiếp trước ra sao để trêu chọc nhau và ngày càng trở nên thân nhau hơn. Thú thật tới lúc đó, tôi cũng chẳng biết gì nhiều về bản thân cũng như gia đình của Hiếu. Tính tôi vốn không tò mò, ai thích kể cho mình nghe thì kể, tôi không hỏi và cũng không lấy đó làm điều quan tâm. Cho đến một hôm...
- Chiều thứ Bẩy này ông có rảnh không?
Ngẫm nghĩ một chốc, tôi trả lời Hiếu:
- Rảnh. Có chuyện gì không?
- Tôi định mời ông đến nhà ăn giỗ bà cụ.
- Ừ, nhưng ông phải chỉ đường cho tôi hay cho tôi địa chỉ. Ông định mấy giờ?
- Khoảng 7 giờ chiều được không? Sáng tôi còn ở phòng mạch. Để tôi vẽ đường đến cho ông sau.
- Ừ, cứ định như vậy đi.
 
Chiều thứ Bẩy tôi đến nhà Hiếu, một căn nhà nhỏ tọa lạc trong một khu vực yên lặng, hơi xa thành phố. Khi tôi tới, Hiếu đã cúng bái xong rồi, đang ngồi chờ tôi. Tôi đến bàn thờ, thắp nén nhang tỏ lòng tôn kính người quá cố. Nhìn di ảnh, mẹ của Hiếu là một người đàn bà khắc khổ, trông có vẻ lam lũ dù tấm ảnh chụp lúc còn khá trẻ. Duy chỉ có cặp mắt, cặp mắt thật buồn, cặp mắt của một người chịu đựng và hy sinh. Kế bên di ảnh là một bức ảnh của một người đàn ông mặc quân phục, da sạm nắng mà tôi đoán là cha của Hiếu. Điểm làm tôi ngạc nhiên, tôi là người khách duy nhất mà Hiếu mời! Không một người nào khác, ngoài tôi và Hiếu! Ngoài hai bức di ảnh trên bàn thờ, trong nhà không treo một tấm hình nào khác. Đồ đạc bầy biện rất đơn sơ nhưng gọn gàng và sạch sẽ. Nhìn qua, ai cũng có thể đoán được phần nào tâm lý của người chủ nhà.
Trong bữa ăn, Hiếu vui vẻ cười nói huyên thuyên nhiều hơn bình thường. Không biết có phải vì chút rượu vang hay đã lâu trong bữa ăn mới có người cho Hiếu nói chuyện, hoặc vì một lý do nào đó mà Hiếu cố che dấu để quên đi?
Dùng cơm xong, chúng tôi ra phòng khách ngồi uống cà phê, nói chuyện. Lúc này Hiếu lại trở nên ít nói, có vẻ trầm ngâm tư lự, thành thử tôi cứ phải khơi chuyện.
- Ông ở một mình, sao không lấy vợ cho có không khí gia đình? Tôi đi làm về còn có cha mẹ, anh em, ông định ở như vầy đến bao giờ? Vả lại, cỡ người như ông đâu phải là khó lấy vợ!
Hiếu im lặng một hồi lâu rồi trả lời:
 
- Tôi cũng đã từng lập gia đình rồi.
Tôi nhìn Hiếu không nói. Hiếu tiếp tục kể:
- Tôi lấy vợ cách đây ba năm, ăn ở với nhau được gần một năm thì chúng tôi xa nhau. Chẳng phải lỗi tại Thy, lỗi tại tôi thì đúng hơn. Dầu sao đi nữa thì chúng tôi cũng đã ly dị. Như có dịp để tâm sự, Hiếu miên man kể cho tôi nghe.
- Bố của tôi là một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông thuộc đơn vị tác chiến nên nay đây mai đó, vì vậy ông không muốn mẹ tôi theo. Khi tôi ra đời, lớn lên trong tình thương của mẹ, ít khi thấy mặt cha. Gia đình bên nội cũng như bên ngoại, tôi đều không biết vì bố mẹ tôi thương nhau không có sự đồng ý của cả hai gia đình vốn ghét nhau từ lâu. Mẹ tôi bị gia đình mình từ và gia đình bố tôi không nhận, nhưng vì thương yêu nhau nên bố mẹ tôi bất chấp tất cả để được gần nhau.
 
Lấy nhau một thời gian ngắn thì bố tôi nhập ngũ, mẹ tôi bắt đầu cuộc sống xa chồng, một thân một mình và có mang tôi. Không nói thì ông cũng có thể tưởng tượng được lúc đó mẹ tôi khổ sở đến thế nào. Bên nội, bên ngoại ngoảnh mặt nhất định không chịu nhìn. Chỉ tội bà ngoại tôi, thương con nhưng sợ chồng, lâu lâu lén lút gặp mẹ tôi và dấm dúi cho ít tiền. Mẹ tôi phải buôn thúng bán bưng để tự nuôi thân và chờ ngày sinh con.
Ngày tôi ra đời, tôi là nguồn sống của bà. Tôi lớn lên trong sự hy sinh cơ cực của mẹ tôi, nhưng ngày đó tôi còn quá nhỏ để nhận thức được sự hy sinh của mẹ mình. Tôi không biết  phải diễn tả thế nào để nói lên được sự vui sướng của mẹ tôi mỗi khi bố tôi về phép, không còn gì sung sướng hơn cho người đàn bà khi thấy chồng mình, con mình và mình được quây quần chung một nhà. Đôi khi mẹ tôi đi xe đò, mang tôi lên đơn vị thăm chồng. Bố tôi vừa mừng vì được gặp vợ con, vừa lo vì đường xá xa xôi, mất an ninh.
Sau khi Cộng Sản chiếm Miền Nam, bố tôi bị chúng bắt đi cải tạo hay đi tù thì đúng hơn! Họ chuyển bố tôi ra Bắc. Mẹ tôi lặn lội ra ngoài đó thăm chồng nhưng họ cho biết bố tôi đã bị bệnh chết! Một người đồng tù đã lén cho mẹ tôi biết là bố tôi đã bị hành hạ đến chết và cho mẹ tôi biết ngày bố tôi bị giết!
 
Trở vào Nam, đau đớn vì bố tôi bị giết, mẹ tôi lại phải chứng kiến cảnh tôi bị ngược đãi ở trường học vì có cha là lính ngụy. Mẹ tôi tìm cách vượt biên vì tương lai của tôi. Tôi vốn hiếu học lại có trí nhớ dai. Sau khi bán hết tất cả đồ đạc, tom góp được một khoản tiền, mẹ tôi đưa tôi xuống Rạch Giá để tìm đường đi.
Dừng lại, Hiếu nuốt nước bọt một cách khó khăn rồi kể tiếp:
- Trời cũng thương nên chuyến đầu đi lọt dù trải bao gian nan trên biển cả. Nếu không lọt thì cũng chẳng bao giờ còn tiền để đi những chuyến sau. Cuối cùng mẹ tôi và tôi đến Mã Lai. Không một nước nào nhận, nước sau cùng là Mỹ, họ nhận mẹ con tôi, một họ đạo Tin Lành bảo trợ cho vào Mỹ.
 
Đến Mỹ, không có nghề chuyên môn, tiếng Anh lại không biết, mẹ tôi vào làm phụ bếp trong một nhà hàng. Ai sai gì làm đó, một tuần bẩy ngày. Tối về mẹ tôi lại gò lưng may, ráp những tay áo, lấy tiền theo từng cái. Còn tôi chẳng phải lo lắng gì ngoài việc ăn học. Tôi học dễ dàng, từ trung học lên đại học rồi thi vào trường thuốc, ra trường và đi thực tập. Trong thời gian thực tập, tôi gặp Thy cũng thực tập cùng một nhà thương. Chúng tôi quen nhau và tình cảm nẩy sinh.
 
Cha mẹ của Thy cũng là bác sĩ từ Việt Nam, qua đây thi lại, thực tập lại rồi ra hành nghề. Nói chung gia đình Thy thuộc giai cấp trưởng giả. Họ biết cách ăn nói, xã giao rất lịch thiệp. Gia đình Thy rất quý mến tôi, mọi người ai cũng mong chúng tôi thành vợ thành chồng cả. Đời tôi thật sung sướng. Năm cuối thực tập, chúng tôi quyết định lấy nhau. Tôi đưa mẹ tôi đến nhà bố mẹ Thy dùng cơm tối để nói chuyện chung thân cho hai đứa tôi. Trong bữa cơm với gia đình Thy ...
Giọng Hiếu trở nên khó khăn, ngập ngừng.
- Tôi chợt nhận thấy sự quê mùa của mẹ tôi khi ngồi chung bàn với gia đình Thy. Từ cái tóc, cách ăn mặc, lối ăn uống... Khi bố mẹ Thy nói chuyện, hỏi mẹ tôi những chuyện thông thường, mặt mẹ tôi ngớ ra, trắng bệch, giọng nói trở nên run rẩy, sợ hãi... Tôi... Hiếu nói nhỏ nhỏ, giọng run run trong cuống họng.
- Tôi... lúc đó cảm thấy xấu hổ. Tôi xấu hổ vì sự quê mùa, thiếu kiến thức của mẹ mình khi so sánh với người khác. Tôi trở nên tức giận mẹ tôi và có nhiều cử chỉ hỗn láo với mẹ trong suốt bữa ăn! Mẹ tôi im lặng, lúc về nhà bà luôn miệng xin lỗi tôi, đã làm tôi mất thể diện.
 
Đám cưới chúng tôi diễn tiến như dự định. Tôi càng tức tối trong ngày cưới khi thấy sự quê kệch, luống cuống của mẹ mình. Khách toàn là khách sang trọng. Lúc đó, tôi giận mẹ tôi vô cùng, tại sao những việc đơn giản như thế mà cũng không biết. Tôi gay gắt với mẹ tôi đến nỗi có lúc mẹ tôi vừa run vừa chẩy nước mắt vì sợ không vừa ý tôi!
Mẹ tôi về ở với vợ chồng chúng tôi. Thy có nhiều lúc khiếm nhã với mẹ của tôi, những lúc đó tôi lại tức tối mẹ tôi, tại sao những chuyện như vậy mà cũng không biết để người khác coi thường. Mẹ tôi trở nên sợ hãi, bà cố tránh chúng tôi, cả ngày bà trốn trong phòng. Chỉ những lúc ăn cơm bà mới phải ra, ăn vội ăn vàng rồi lại vào phòng. Mà đồ ăn nào vừa ý bà! Mẹ tôi ăn không có cơm đâu được. Đồ ăn thường là đồ kho, đồ xào. Thy lớn từ bé ở đây, lại thích ăn như người Mỹ. Tôi thì sao cũng được nhưng lúc đó tôi lại muốn tập cho mẹ tôi thay đổi! Chúng tôi đã bắt mẹ tôi nghỉ làm trước khi lấy nhau. Không lẽ cả hai vợ chồng là bác sĩ mà mẹ thì làm phụ bếp!
 
Ở như vậy được vài tháng thì mẹ tôi bỏ đi. Bà đi vì sợ vì bà, vì sự quê kệch của bà mà vợ chồng tôi sẽ mất hạnh phúc. Tôi không hiểu lúc đó tôi là con người hay là con vật! Tôi không mảy may quan tâm. Tôi nghĩ mẹ tôi đã từng tự lập từ hồi trẻ đến giờ, không có tôi mẹ tôi cũng không sao, nhất là mẹ tôi nói mẹ tôi dọn về ở với một người bạn. Thy cũng vậy. Chẳng trách Thy được. Tôi là con mà đối xử với mẹ mình như vậy, trách sao được người con dâu! Tôi có hỗn láo với mẹ tôi thì Thy mới dám coi thường mẹ tôi chứ! Mấy tháng sau...
Giọng Hiếu trở nên run rẩy, cố kìm hãm sự xúc động. Mắt ngấn lệ ngước lên nhìn hình mẹ.
- Mấy tháng sau, một nhân viên cảnh sát đến gõ cửa báo cho tôi biết mẹ tôi đã qua đời. Như tiếng sét đánh ngang tai, tôi không tin! Tôi vội vã chạy đến nhà xác. Xác mẹ tôi nằm đó, những nét nhăn hằn trên trán, những sự khổ cực hy sinh của mẹ tôi mà tôi cho là dấu tích của sự quê mùa. Tôi đã lầm ...
Hiếu nức nở khóc.
- Làm sao mẹ tôi có thể sống thiếu tôi! Tôi là nguồn sống của bà mà! Tất cả sinh lực, ý chí phấn đấu trước kia là vì tương lai của tôi, là vì tôi! Không có tôi bên cạnh, không có đứa con trai thương yêu của bà bên cạnh, bà chẳng còn thiết gì! Tinh thần bà suy sụp, thể xác khô kiệt. Mẹ tôi lại sống một mình, chẳng phải với người quen như tôi tưởng. Trong khi đó vợ chồng tôi mải mê làm việc, lo làm giầu!
 
Tội này tôi làm sao rửa hết được! Tại sao tôi không nghĩ những lúc mẹ tôi khổ cực ở xó bếp để tôi được ăn miếng ngon, đến trường mặc những bộ quần áo mới! Tại sao tôi không nghĩ mẹ tôi còng lưng may những buổi tối để tôi có cái xe, thay vì bà ngồi đọc sách báo để tăng kiến thức như tôi mong muốn, cho tôi khỏi xấu hổ. Mẹ tôi chịu ngu dốt để cho tôi khôn, mẹ tôi quê mùa để tôi được thanh lịch mà tôi lại coi thường, khinh chê mẹ tôi! Sau khi chôn cất mẹ tôi. Tôi và Thy ly dị nhau chẳng bao lâu sau đó vì thấy Thy tôi lại nghĩ đến mẹ tôi.
 
Tôi dọn về tiểu bang này để khỏi phải thấy những cảnh quen cũ. Ông thấy đó, ngày lễ Vu Lan tôi không dám lên chùa vì sợ thấy cảnh hiếu thảo của người con đối với mẹ của họ, sợ thấy cảnh những người còn các bậc từ mẫu. Tôi làm công quả hy vọng hương hồn mẹ tôi vui lòng, những công việc mà bà rất muốn làm nhưng đã không làm được vì dành hết thời giờ cho tôi. Tôi bố thí, cúng dường với tâm ý hồi hướng công đức cho mẹ tôi dù biết rằng nên hồi hướng công đức cho tất cả chúng sinh. Công ơn mẹ tôi sâu dầy, lúc sống tôi đã không trả được, ít ra cũng làm nguôi ngoai phần nào hương hồn người khi đã mất.
Hiếu nhìn ảnh mẹ mình, nước mắt dàn dụa, miệng lẩm bẩm:
- Mẹ ơi, tội này con làm sao rửa hết được.
Tôi ngồi chẩy nước mắt nhìn Hiếu. Một tâm hồn đau khổ, đang quằn quại trước mặt tôi. Hiếu tiễn tôi ra cửa, miệng nói khe khẽ:
- Đừng bao giờ để hối hận như tôi ông nhé. Phúc thay cho những kẻ còn mẹ!
 
Tôi không trả lời, nắm tay Hiếu bóp mạnh.
 
 
Trần Dzũng Minh Dân

Monday 30 May 2011

Mạng Lưới Tuổi Trẻ Việt Nam Lên Đường một lần nữa xin hân hạnh kính mời các bạn cùng tham dự Đại Hội Thanh Niên Sinh Viên Việt Nam Thế Giới Kỳ VI (Đại Hội 6) được tổ chức tại Phi Luật Tân vào ngày 4-7 tháng 8, 2011.



Với chủ đề "Vượt tường lửa! Hoạt động mạng, cùng thay đổi xã hội", mục tiêu của Đại Hội 6 rất đơn giản nhưng mạnh dạn, rõ ràng: đó là nói lên sự quan tâm của giới trẻ qua những hoạt động cụ thể và tích cực, phát huy tinh thần sáng tạo và chủ động, trao đổi và liên kết tạo sức mạnh, cũng như khai thác các sáng kiến cùng kỹ thuật điện tử hiện đại để phát triển xã hội về mọi mặt.

Thế giới cũng đã chứng kiến ảnh hưởng mạnh mẽ của kỹ thuật điện tử trong việc nối kết và khơi động sức mạnh quần chúng tại Tunisia và Ai cập. Các nhà đấu tranh tại Bắc Phi đã không chỉ đòi hỏi quyền tự do sử dụng các trang mạng xã hội như Facebook mà họ đã đòi hỏi công bằng xã hội và tự do nhân quyền.  Và họ đã khai thác kỹ thuật truy cập mạng lưới để đưa đến thắng lợi.  


Tại quốc nội, sinh viên học sinh, các nhà đấu tranh dân chủ,và người dân nói chung đã nhanh chóng nhận thức được sức mạnh quần chúng, nên đã tham gia những cuộc tụ họp và thảo luận công khai về những vấn đề của đất nước. Mạng Lưới Lên Đường mong Đại Hội 6 tiếp tục là điểm hội tụ để tuổi trẻ, các nhà hoạt động, các dân báo và đồng bào quan tâm trao đổi những ước mơ và khát vọng chung để cùng nhau xây dựng nền tảng cho một xã hội dân sự tại Việt Nam.

Đến với Đại Hội 6, chúng ta sẽ cùng nhau học hỏi, chia sẻ những kinh nghiệm khó quên trên chặng đường đời.  Hãy cùng chúng tôi tiến tới hành trình kỳ diệu này.

Mến chào và hẹn gặp lại các bạn tại Phi Luật Tân tháng 8 năm 2011!

Trân trọng,
Ban Tổ Chức
Đại Hội Thanh Niên Sinh Viên Việt Nam Thế Giới Kỳ 6

Tuổi Trẻ Ai Cập - Tuổi Trẻ Việt Nam

Các bạn thân mến,

Đại Hội Thanh Niên Sinh Viên Việt Nam Thế Giới đã từng là nơi gặp gỡ để các bạn trẻ trong và ngoài nước trao đổi và vạch ra cho mình một hướng đi cùng những đóng góp cụ thể cho quê hương Việt Nam.  

Sau 11 năm từ khi Đại Hội I được tổ chức tại Melbourne, Úc Châu, Mạng Lưới Tuổi Trẻ Việt Nam Lên Đường (Mạng Lưới Lên Đường) vẫn tiếp tục tìm kiếm những người 
lãnh đạo trẻ thiết tha quan tâm đến tương lai của đất nước và vận mệnh của dân tộc Việt Nam.

Lặng người ở nghĩa trang hàng vạn hài nhi


- Hơn 42.200 hài nhi bị cha mẹ bỏ rơi từ khi chưa lọt lòng hiện đang yên nghỉ tại hai nghĩa trang bào thai ở Thừa Thiên – Huế. Những dòng thơ than khóc, trách cha mẹ viết trên những ngôi mộ tí xíu vô danh khiến người đọc phải lặng người…
 
LTS: Tình trạng nạo phá thai ở Việt Nam đã lên đến mức báo động khi liên tục trong nhiều năm liền, Việt Nam luôn là nước đứng trong top 10 nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới.
Tỷ lệ này ngày càng gia tăng nhanh ở lứa tuổi vị thành niên. Song song với tình trạng này thì tỷ lệ vô sinh ở Việt Nam cũng ngày càng tăng cao, trong đó các lý do liên quan đến vấn đề nạo hút thai xuất hiện ngày càng nhiều.
Báo chí, các diễn đàn trực tuyến đã có nhiều bài viết mô tả về thực trạng đau lòng này nhưng tình hình không có dấu hiệu được cải thiện.
VietNamNet khởi đăng những câu chuyện chất chứa nỗi đau về các thai nhi bị bỏ rơi, những dằn vặt, day dứt của những người khốn khổ chạy chữa vô sinh vì nạo phá thai với hi vọng có thể tạo ra một sự thay đổi nhất định nào đó về nhận thức cũng hành vi của cộng đồng đối với hậu quả của tình dục không an toàn và nạo hút thai tràn lan.
“Ngọn nến hồng chưa kịp sáng lung linh”
Đã được nghe kể về nơi yên nghỉ của những bào thai tại xã Hương Hồ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế nhưng khi tận mắt chứng kiến, chúng tôi mới thực sự bị choáng ngợp, nhưng quặn đau trước sự rộng lớn của nó.
Hàng ngàn nấm mộ của hơn 42.200 sinh linh bị chối bỏ được chôn cất ở nghĩa trang bào thai Anh Hài (Thừa Thiên - Huế)
 
Nghĩa trang hài nhi nằm tựa lưng vào làng Ngọc Hồ. Giữa trưa nắng oi ả, chúng tôi đi bộ men theo con đường mòn dẫn lên nghĩa trang. Khung cảnh hoang vắng đến rợn người. Cả hàng vạn ngôi mộ được quét sơn trắng nằm ngay ngắn, thẳng hàng khắp vùng đồi núi rộng lớn. Tất cả các ngôi mộ đều không có tên, chỉ ghi ngày tháng năm sinh trên cây thánh giá cắm ở đầu mộ.
Ở góc cuối nghĩa trang, hai người đàn ông đang hì hục đào xuống lớp đá, đất cằn cỗi. Đó là anh Trương Văn Năng (50 tuổi) và Tống Viết Hiếu (47 tuổi), những người trông coi nghĩa trang này.
Các anh nhẹ nhàng đặt 12 sinh linh được gói ghém kỹ, lấp đất xuống, cắm lên trên 3 que nhang và cầu nguyện.
Đã chứng kiến nhiều đám chôn cất, nhưng chưa bao giờ tôi thấy xót xa bằng buổi “hạ huyệt” này, khi không hề có trống, kèn, vòng hoa, lời than khóc. Bên cạnh huyệt chôn, còn có nhiều huyệt mộ đã được đào sẵn để chờ an táng cho những hài nhi mới.
Anh Năng dẫn tôi đi lần lượt hết ba quả đồi với chi chít những ngôi mộ, rồi dừng lại ở tượng Đức mẹ và cậu bé thiên thần ở giữa nghĩa trang. Phía hai bên, có những bia đá khắc những dòng thơ như tiếng kêu cứu của hàng vạn thai nhi bị cha mẹ chối bỏ khi chưa kịp lọt lòng:
“Em là thai nhi vô tội
Hiện thân là buồn tủi
Tình yêu tắt lịm rồi
Núi đồi xa xôi
Một đêm lạnh trời sương
Em vấp ngã nơi đây
Em thiếp ngủ không hay
Lá rụng che phủ đầy...”
(Linh mục Phaolo, 11/4/2008)
Tôi không biết em là trai hay gái. Tiếng kinh buồn, cất tiếng gọi thai nhi...”
Ngoài nghĩa trang Anh Hài nổi tiếng ở Huế, thì ở Nha Trang (Khánh Hòa) cũng có một nghĩa trang hài nhi với tên gọi Đồng Nhi và đặc biệt là ở thành phố Pleiku (Gia Lai) cũng có một nghĩa trang tương tự với khoảng hơn 1 vạn ngôi mộ vô danh bé xíu nằm lọt thỏm giữa núi rừng Tây Nguyên.

Nghĩa trang này được linh mục Nguyễn Văn An ở nhà thờ Đức An (TP Pleiku) khai sinh và trông coi từ năm 1992, nhưng nó chỉ thực sự trở nên 'nổi tiếng' sau khi đón một hài nhi bị bỏ rơi vào đúng dịp Trung thu năm 2004.
Báo Thanh Niên (trong một phóng sự năm 2008) từng kể lại rằng, hài nhi đặc biệt với đủ hình hài này được đưa đến linh mục Nguyễn Văn An và được đặt lên một tờ báo. Thật bất ngờ, hài nhi đã đưa tay bấu chặt lấy ngón tay của vị linh mục. Đó là hành động duy nhất của đứa trẻ xấu số trước khi từ giã cõi đời…
Câu chuyện của hài nhi mang tên Trung Thu đã gây ra bao xúc động. Có người biết chuyện không giấu được cảm xúc, đã viết nên bài thơ ai oán:
“Con không có lời ru
Đưa con vào cuộc đời
để con được làm người
Con không còn tiếng khóc chào đời
và làm người như bao người.
 
Xin thắp lên cho con một ngọn nến,
một nén nhang
cho lòng con được ấm lên
trong lòng đất lạnh tình người.

Xin cắm cho con một cành hoa
và một lời ăn năn dù chỉ là muộn màng.
.........
 
Xin hãy thương con, đừng bỏ con.
Con tội tình gì? Mẹ ơi! Cha ơi! …”
Có ngày chôn tới 20 hài nhi vô tội
Anh Năng, người trông coi nghĩa trang Anh Hài (Thừa Thiên - Huế) cho biết: Nghĩa trang ra đời ngày 2/2/1992, do một số linh mục Giáo phận Huế thành lập.
Bạt ngàn những ngôi mộ vô danh bé xíu nằm lọt thỏm giữa những quả đồi hoang vắng. Trên các cây thành giá chỉ kịp khắc ghi ngày các em về với đất ....
 
Khi đó, đời sống xã hội phát triển, những nhu cầu dục vọng, tình yêu đôi lứa phát triển mạnh mẽ khiến tình trạng nạo phá thai lớn. Một số linh mục nghĩ đến việc đi nhặt những bào thai mang về chôn và khi giáo phận thành lập Ban Bác ái xã hội thì nghĩa trang do Ban chăm sóc.
Ngày càng có nhiều bào thai được chôn ở đây và đến nay đã được hơn 42.000. Đây là nghĩa trang bào thai đầu tiên tại Việt Nam và hiện tại là lớn nhất miền Trung.
Những năm đầu tiên, mỗi thai nhi chỉ là một nấm mồ bằng đất sơ sài. Nhờ tấm lòng thiện nguyện của Hội Bác ái xã hội và những nhà hảo tâm, nay mộ được xây bằng bê tông. Số lượng hài nhi cứ tăng dần theo thời gian, có lúc 20 em/ngày được chôn ở đây. Để giảm kinh phí và diện tích đất chôn, những người phụ trách quyết định xây một mộ một tuần và hàng chục hài nhi được chôn chung một mộ.
Ngày nào anh Năng cũng “hạ sơn”, lặn lội qua đò trên sông Hương rồi về TP Huế dạy thêm môn Anh văn cho học sinh cấp 2 để kiếm thêm thu nhập.
Chiều tối về nhà, 'hành trang' của anh thường có xác hài nhi để mang về chôn. Bào thai anh nhận từ những người tình nguyện đi gom hoặc anh tự đi lượm được ở gốc cây, thùng rác... 
Gần 19 năm qua, trung bình mỗi năm, nghĩa trang đón nhận hơn 2.000 bào thai. Riêng năm 2009 đã có gần 3.000 thai nhi. Con số này có thể gây sốc cho nhiều người, nhưng vẫn chưa phản ánh được hết thực chất của việc nạo phá thai, bởi còn rất nhiều vụ phá thai mà chúng ta không thể nào biết hết được.
Nguyên Bình – Cẩm Quyên

THÁCH ĐỐ VÀ YÊU SÁCH Ở THỜI ĐẠI HÔM NAY





Bài thuyết trình của LM Lê QuốcThăng về "Toàn Cầu Hóa"trong buoi Tọa Đàm ngày 27.5.2011 cua UB.CLHB. 
Thời đại của thế kỷ XXI hôm nay là Kỷ nguyên  được đánh dấu bởi hiện tượng Toàn Cầu Hoá, đây là một hiện tượng phức tạp chi phối mạnh mẽ, toàn diện cuộc sống con người trên bình diện cá nhân cũng như cộng đồng. Dù là người chống đối hay ủng hộ, tất cả đều nhận thức rõ ràng sự tồn tại và những ảnh hưởng tiêu cực lẫn tích cực của nó. Khởi đầu là hiện tượng toàn cầu hoá về kinh tế và tài chính, với sự phát triển mạnh mẻ, năng động đến mức bùng nổ của nền khoa học công nghệ thông tin, thế giới dường như bị thu nhỏ lại mọi thông tin trên thế giới đựơc tiếp cận nhanh chóng, chính xác, đa diện, đa chiều. Tưởng chừng như mọi biên giới quốc gia, mọi rào cản ngôn ngữ, mọi ngăn cách địa lý không còn nữa. Thế giới như bị san phẳng. (Xem Thomas L. Friedman, Thế Giới Phẳng Tóm lược lịch sử Thế giới Thế kỷ 21, Nhà Xuất Bản Trẻ Tái bản lần thứ 3, 2008.)
Toàn cầu hoá đã thực sự tác động đến mọi chiều kích của đời sống nhân loại trên trái đất này. Toàn cầu hoá ngày nay đã mở rộng tầm ảnh hưởng, không chỉ trong lãnh vực kinh tế - tài chính thế giới mà còn lan toả đến mọi lãnh vực văn hoá, xã hội, chính trị dẫn đến những biến đổi quan trọng trong mô hình sản xuất, nếp sống, lối suy nghĩ cũng như tiêu chuẩn đánh giá con người. (Xem Gm, Nguyễn Thái Hợp OP, Một Cái nhìn về Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo, Nhà Xuất bản Phương Đông, 2010, tr. 389). Chính trong bối cảnh của một Thế Giới Toàn cầu hoá như vậy đã làm nảy sinh những thách đố cũng như yêu sách về công bằng, về an sinh, về tự do và các chuẩn mực lý mới. Sứ vụ Loan Báo Tin Mừng của Giáo Hội Công Giáo cũng phải đối diện với những thách đố và yêu sách ấy vì không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng người môn đệ Đức Kitô (GS, Số 1)
I. Toàn Cầu Hoá Thu Hẹp Thế Giới : Những vấn đề của mỗi Quốc Gia, mỗi sắc tộc, mỗi nền văn hoá xem ra không còn là vấn đề riêng mà đã trở nên vấn đề chung. Những xung đột, những tranh chấp của các cộng đồng sắc tộc, quyền lợi người lao động hay quyền lợi của người dân không còn ở trong giới hạn của một thẩm quyền lãnh thổ, khu vực mà đã có khuynh hướng giải quyết bằng những nỗ lực đa quốc gia, đa khối hay mang tầm vóc toàn cầu như đã sảy ra ở cuộc chiến Vùng Vịnh, Afganitan và đang sảy ra tại Lybia … Nhiều vấn đề tác động đến ý thức con người, khiến con người chú ý hơn đến những vấn đề có ảnh hưởng toàn cầu như vấn đề nóng lên của khí hậukhủng bốbuôn lậu ma tuý và vấn đề nâng cao mức sống ở các nước nghèo. Với việc gia tăng thương mại quốc tế với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới; gia tăng luồng tư bản quốc tế bao gồm cả đầu tư trực tiếp từ nước ngoài; gia tăng luồng dữ liệu xuyên biên giới thông qua việc sử dụng các công nghệ như Internet, các vệ tinh liên lạc và điện thoại; gia tăng trao đổi văn hoá quốc tế, chẳng hạn như việc xuất khẩu các văn hoá phẩm như phim ảnh hay sách báo, tất cả đã làm mờ đi ý niệm chủ quyền quốc gia và biên giới quốc gia thông qua các hiệp ước quốc tế dẫn đến việc thành lập các tổ chức như WTO và OPEC.
Các tổ chức quốc gia sẽ mất dần quyền lực, quyền lực này sẽ chuyển về tay các tổ chức đa phương như WTO. Các tổ chức này sẽ mở rộng việc tự do đối với các giao dịch thương mại, và thông qua các hiệp ước đa phương hạ thấp hoặc nâng cao hàng rào thuế quan để điều chỉnh thương mại quốc tế.
Về khía cạnh văn hoá, xã hội, toàn cầu hoá sẽ tạo ra những hiệu quả trái ngược ở mức độ cá nhân hay dân tộc, mà kết cục thế nào đến nay cũng vẫn chưa ngã ngũ. Toàn cầu hoá sẽ tạo ra một sự đa dạng cho các cá nhân do họ được tiếp xúc với các nền văn hoá và văn minh khác nhau. Toàn cầu hoá giúp con người hiểu hơn về thế giới và những thách thức ở quy mô toàn cầu qua sự bùng nổ các nguồn thông tin, việc phổ thông hoá hoạt động du lịch, việc tiếp cận dễ dàng hơn với giáo dục và văn hoá; một sự đồng nhất đối với các dân tộc qua ảnh hưởng của các dòng chảy thương mại và văn hoá mạnh.
Toàn cầu hoá sẽ làm tăng lên nhiều lần các mối quan hệ giữa các công dân trên thế giới và cũng như các cơ hội cho từng người. Tuy nhiên nó đặt ra vấn đề là phải tìm ra một giải pháp thay thế cho hệ thống chính trị và hiến pháp hiện tại dựa trên khái niệm nhà nước-quốc gia. Các thực thể này đã từng gây ra những tác động tiêu cực trong suốt lịch sử do tính chất can thiệp mạnh bạo của nó. Ảnh hưởng của chúng giảm dần do sự toàn cầu hoá, và không còn đủ tầm xử lý nhiều thách thức mang tính toàn cầu ngày nay. Từ đó nảy sinh thách thức cần thiết lập một toàn cầu hoá dân chủ thể chế nào đó. Kiểu toàn cầu hoá này dựa trên khái niệm "công dân thế giới", bằng cách kêu gọi mọi người sống trên hành tinh này tham gia vào quá trình quyết định những việc liên quan đến họ, thông qua môt tổ chức chung như Liên Hiệp Quốc. (Xem Toàn Cầu Hoá, Tự điển http:// vi.wikipedia.org/wiki/Toàn Cầu Hoá  )
Thế giới ngày càng chia sẻ những vấn đề và thách thức vượt qua khỏi quy mô biên giới quốc gia, Thế giới quả thật đã và đang thu hẹp lại thành một ngôi làng. Cơ hội để phát triển các quốc gia, các dân tộc ngày càng lớn nhưng thách đố ngày càng nhiều.
II.      Những Thách Đố Cho Đường Lối Công Lý Và Hoà Bình Của Giáo Hội
Để thấy cách thực tế và cụ thể những thách đố cho đường lối Công lý và Hoà bình của Giáo hội ở thời đại này, thiết tưởng, cần phải nhìn bối cảnh thế giới toàn cầu hoá qua lăng kính các công việc chính của Hội Đồng Giáo Hoàng Về Công Lý Và Hoà Bình. Công việc chính của Hội đồng Giáo hoàng là thực hiện các cuộc nghiên cứu định hướng hoạt động dựa trên giáo huấn xã hội của Giáo Hội do Đức Thánh Cha và hội đồng giám mục công bố. Thông qua các cuộc nghiên cứu, Hội đồng Giáo hoàng cũng đóng góp vào sự phát triển của giáo huấn này trong những lĩnh vực rộng lớn sau : Công lý,  Hoà bình và Nhân Quyền. Từ đó, sẽ thấy nổi lên các thách đố sau :
1.   Tình Trạng Bất Bình Đẳng, Phân Hoá Giàu Nghèo, thiếu Tôn Trọng Công Ích ngày càng gia tăng:
1.1        Hơn bao giờ hết ngày nay người ta chứng kiến tình trạng bất bình đẳng xảy ra hầu như ở mọi nơi trên thế giới. Từ ở những Quốc gia nghèo đói, đang phát triển cho đến ngay cả những quốc gia được coi là phát triển mạnh về kinh tế luôn tồn tại sự bất bình đẳng giữa các tầng lớp, giai cấp trong xã hội với mức độ ngày càng phổ biến và tinh vi. Trong xã hội luôn có những thế lực, những nhóm đặc quyền, đặc lợi muốn chi phối toàn bộ ích lợi cộng đồng, chiến đoạt cách bất công tài sản hoăc quyền lợi chính đáng của người nghèo, của cộng dồng sắc tộc thiểu số hay của những quốc gia nhỏ bé, kém phát triển. Những sự bất bình đẳng trước đây chỉ được trải nghiệm trong nội bộ các quốc gia, nay đang trở nên mang tính quốc tế và càng làm cho tình hình bi đát của Thế giới Thứ Ba thêm rõ rệt hơn bao giờ hết. (Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo số 94). Có nhiều dấu chỉ cho thấy xu hướng các sự bất bình đẳng ngày càng tăng cao giữa các nước tiến tiến và các nước đang phát triển, cũng như ngay chính trong các nước đã công nghiệp hoá. Những tiến trình phát triển kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật giúp nhiều người ngày càng giàu về kinh tế, nhưng cũng làm nhiều người ngày càng nghèo đi. (Sách đã dẫn, Số 362).
1.2        Thế giới hôm nay là một siêu thị khổng lồ trong đó tốc độ mua bán, trao đổi hàng hoá gia tăng chóng mặt xuyên quốc gia, đa quốc gia. Siêu thị này đã góp phần tạo nên một thế giới tiêu thụ, hàng hoá, của cải vật chất dư thừa. Nhưng đồng thời, cũng tạo nên hố phân cách giàu nghèo ngày càng sâu rộng giữa các nước phát riển và kém phát triển, giữa tầng lớp thượng lưu và người bần cùng. Các nước giàu đã tỏ ra có khả năng tạo ra sự an vui vật chất, nhưng lại thường phải hy sinh con người và các giai cấp xã hội yếu kém hơn. “ Người ta không thể không biết tới sự thật : ranh giới giữa giàu và nghèo đan chéo với nhau ngay trong chính các xã hội, bất kể là xã hội phát triển hay đang phát triển. Thật vậy, những bất bình đẳng xã hội, thận chí tới mức sống cơ cực và nghèo khổ, có mặt trong các nước giàu thế nào, thì tương tự như vậy, trong các nước kém phát triển hơn, người ta cũng thường chứng kiến những biểu hiện của sự ích kỷ và một sự phô trương giàu có rất đáng lo ngại và chướng ta gai mắt.” (Sách đã dẫn, số 374)
1.3        Bên cạnh đó điều đáng lo ngại, báo động trong thế giới hôm nay, nhất là nơi các quốc gia đang phát triển hay chậm phát triển là tệ nạn khai thác tài nguyên môi trường vì ích lợi của các nước lớn và của các tập đoàn kinh tế. Tài nguyên dần cạn kiệt, môi trường sống ngày càng bị phá huỷ và trở nên ô nhiễm. Tình trạng bầu khí quyển nóng lên, những hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu gây nhiều thiệt hại đang diễn ra là kết quả của một quá trình dài lâu con người khai thác và phá huỷ môi trường tràn lan, bừa bãi, không kế hoạch vì lợi ích cục bộ. Cũng không thể không nói đến tình trạng vi phạm công ích đang ngày càng phổ biến. Những tình trạng tệ hại sảy ra cho môi trường sống tự nhiên hay những bất công, bất bình đẳng đang tồn tại có một nguyện nhân sâu xa là do thiếu tôn trọng công ích. Sự thiếu tôn trọng công ích nơi những nước lớn muốn bành trướng, áp đặt các nước nhỏ phục vụ lợi ích kính tế, quan sự, chính trị của mình. Sự thiếu tôn trọng công ích khí những tập đoàn kinh tế, những nhóm quyền lợi muốn chi phối, vơ vét, bóc lột những giai cấp bần cùng trong xã hội. Từ đó dẫn tới sự vi phạm công ích. Công ích thuộc về quyền lợi của kẻ mạnh hơn là quyền lợi của tất cả mọi người, trong khi đó mọi khía cạnh trong đời sống xã hội đều phải liên hệ đến công ích, nếu muốn đạt được ý nghĩa trọn vẹn nhất, công ích xuất phát từ chính phẩm giá, sự thống nhất và bình đẳng của hết mọi người.(Sách đã dẫn, số 164) Công ích là toàn bộ những điều kiện xã hội cho phép con người, tập thể hay cá nhân, đạt tới sự phát triển cách đầy đủ và dễ dàng hơn.(GS, số 26)
2.        Một Thách thức cho Đường Lối Công Lý Và Hoà Bình Của Giáo Hội
2.1. Một thế giới không ngừng gây chiến, không ngưng tiếng súng : Hầu như không thể nào tưởng tưởng được trong một kỷ nguyên hạt nhân như hiện nay, người ta được phép sử dụng chiến tranh như một công cụ để thực thi công lý. Cuộc chiến tranh vùng vịnh vào những thập kỷ cuối của thế kỷ XX và hiện nay như tại Lybia. Ngay hiện tại này, chúng ta đang chứng kiến những cuộc xung đột vũ trang khắp nơi ở Bắc Phi, Nam Á, Trung Đông … Tất cả đều nhân danh công lý, bảo vệ thường dân để tuyên chiến. Chiến tranh đúng là một mối hoạ và không bao giờ là một phương cách thích đáng để giải quyết mâu thuẫn. Chiến tranh chưa bao giờ và cũng sẽ không bao là phương cách thích đáng vì chiến tranh sẽ tạo ra những xung đột mới còn phức tạp hơn. Khi chiến tranh bùng nổ, nó trở thành một cuộc tàn sát không cần thiết, một cuộc ra đi không có ngày về, làm hai tới hiện tai, đe doạ tương lai của nhân loại. Hoà bình không làm mất điều gì, nhưng chiến tranh có thể làm mất tất cả. Thiệt hại do một cuộc xung đột vũ trang gây ra không chỉ thiệt hại vật chất mà còn thiệt hại tinh thần. Chiến tranh là sự thất bại của toàn thể nền nhân đạo chân chính, chiến tranh luôn luôn là một sự thất bại của con người. (Tóm lược Học thuyết Xã Hội Giáo Hội Công giáo, số 498)
2.2  .      Thảm trạng Khủng Bố: Ngày 11/09/2001, khi Toà Tháp đôi, biểu tượng cho sự vững chắc và phát triển của nền kinh tế lớn nhất thế giới là Hoa Kỳ, bị tấn công sụp đổ hoàn toàn, thì lúc đó thế giới bắt đầu bước vào thế trực diện với một cuốc chiến tranh mới cuộc chiến chống khủng bố. Thực tế đã cho thấy không còn cuộc chiến tranh lạnh giữa hai cực Tư Bản Chủ Nghĩa và Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhưng hòa Bình thế giới luôn bị đe doạ qua các cuộc xung đột khu vực, qua các cuộc chiến tranh dầu mỏ ở vùng vịnh, qua các xung đột Tôn giáo, đặc biệt là những cuộc tấn công khủng bố. Con người không tạo ra những cuộc chiến tranh thế giới nữa, nhưng là những cuộc tấn công tàn sát qui mô nhỏ nhưng thiệt hại lại năng nề và gây bất an, bất ổn cho mọi người. Khủng bố là một trong những hình thức bạo lực tàn ác nhất gây kinh hoàng cho cộng đồng thế giới hiện nay; nó gieo hận thù, chết chóc, cũng như thôi thúc báo thù và trả đũa. Khủng bố nay đã trở thành một mạng lưới mờ ám của việc kết cấu chính trị. Người ta có thể sử dụng cả công nghệ tinh vi, nắm trong tay nguồn tài chính khổng lồ và chẳng ngần ngại tham gia vào việc lên kế hoạch ở cấp độ vĩ mô, đánh thẳng vào những người hoàn toàn vô tội, biến họ thành những nạn nhân tình cớ của các hành động khủng bố. (Tóm lược Học thuyết Xã Hội Giáo Hội Công giáo, số 513)
3.        Thách đố về Nhân Quyền :
3.1 Theo Hội đồng Giáo Hoàng Về Công Lý Và Hoà Bình thì vấn đề nhân quyền chiếm tầm quan trọng ngày càng lớn trong sứ vụ của Giáo Hội và cũng theo đó, trong công việc của Hội đồng Giáo hoàng. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II thường xuyên nhấn mạnh rằng phẩm giá của con người là nền tảng cho sự bảo vệ và thăng tiến các quyền cơ bản của người đó.  Ngày nay, các quyền con người đang bị xâm phạm nặng nề, với đủ loại chiến tranh và bạo lực. Việc mở rộng chưa từng thấy gần như trên toàn thế giới những hình thức của sự nô lệ như buôn bán phụ nữ và trẻ em, bóc lột sức lao động, buôn bán ma tuý trái phép. Thảm trạng phá thai ngày càng khủng khiếp, người ta có thể nhân danh sự sống để tiêu diệt sự sống từ trong trứng nước. Ngay tại những nước có chính phủ theo thể thức dân chủ, nhân quyền không phải lúc nào cũng được tôn trọng. Nguyên nhân là người ta chỉ nhìn nhận các quyền này một cách hết sức hình thức. (Tóm lược Học thuyết Xã Hội Giáo Hội Công giáo, số 158)
3.2 Những Thách đố đến từ  môi trường chính trị xã hội thiếu tôn trọng tự do Tôn giáo : Ngày nay, tiếc thay, quyền tự do tôn giáo “ đang bị nhiều nhà nước vi phạm, thận chí tới mức giảng dạy Giáo lý, nhờ người giảng day giáo lý và tiếp thu giáo lý đều trở thành những hành vi phạm pháp có thể bị trừng phạt.” (Gioan Phaolô II, Tông huấn Catechesi Tradendae, số 14). Trên thế giới ngày nay người ta ghi nhận vẫn còn những cuộc bách hại, kỳ thị, những hành vi bạo lực và bất bao dung dựa trên tôn giáo. Đặc biệt tại Á, Phi, các nạn nhân chính vẫn là những phần tử của các nhóm tôn giáo thiểu số, người ta cấm họ không được tự do tuyên xưng tôn giáo của mình hoặc thay đổi tôn giáo, qua những hành vi doạ nạt hoặc vi phạm các quyền, các tự do cơ bản và những tài sản thiết yếu, đến độ tước đoạt tự do bản thân và cả sinh mạng của họ nữa. Có những hình thức tinh vi hơn thù nghịch chống lại tôn giáo, tại các nước Tây Phương, những hình thức này đôi khi được biểu lộ qua sự chối bỏ lịch sử và các biểu tượng tôn giáo trong đó có phản ánh căn tính và văn hóa của đại đa số công dân. Những hình thức đó thường nuôi dưỡng oán ghét và thành kiến, và không phù hợp với quan niệm trong sáng và quân bình về sự đa nguyên và đặc tính đời của các tổ chức chính quyền, không kể sự kiện các thế hệ trẻ có nguy cơ không được tiếp xúc với gia sản tinh thần quí giá của quê hương họ (Bênêdictô XVI, Sứ điệp Ngày Thế Giới Hoà Bình 2011, số 13).
Những Yêu Sách Về Công Lý Và Hoà Bình Ở Thời Đại Hôm Nay
1.        Yêu Sách Từ Đòi Hỏi Của Sứ Vụ Loan Báo Tin Mừng:
1.1        Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng cho con người và thế giới cụ thể : Khi sai di, Ngài đã ra những chỉ thị rất cụ thể giúp người môn đệ biết phải làm gì để chu toàn sứ vụ. “Thầy sai các con đi như con chiên ở giữa sói rừng. Các con hãy đi khắp thế gian. Hãy khôn ngoan như con rắn và hiền lành như bồ câu. Đi đến đâu vào thành nào, nhà nào trước hết các con hãy chúc bình an cho họ. Hãy chữa lành những bệnh nhân, xua trừ ma quỷ…” Tất cả những huấn thị của Chúa Giêsu cho thấy người môn đệ phải lăn xả vào cuộc sống của anh em đồng bào và đồng loại, chia sẻ trọn vẹn cuộc sống với họ vui cũng như buồn, thuận lợi cũng như khó khăn. Cùng với họ đối diện, đương đầu với khó khăn thử thách và giúp họ biết dùng sức mạnh của Thiên Chúa, của Tin Mừng để giải quyết những vấn nạn của cuộc sống. Tám Mối Phúc Thật chính là những cách thế, những con đường để người môn đệ dấn thân đi vào lòng thế giới xây dựng một thế giới có công lý và hoà bình đích thực.
1.2        Vì thế, Giáo Huấn Xã Hội của Giáo Hội minh định rõ ràng : Không có gì liên quan đến cộng đồng nhân loại, những tình huống và những vấn đề liên quan đến công lý, tự do, phát triển, quan hệ giữa các dân tộc, hoà bình mà lại nằm ngoài công cuộc Phúc Âm Hoá; việc Phúc Âm Hoá sẽ thiếu sót nếu không xét tới các đòi hỏi liên tục của Tin Mừng đối với đời sống cá nhân và và xã hội cụ thể của con người. Giữa việc Phúc Âm hoá và việc thăng tiến con người có những mối liên hệ hết sức sâu xa : “ Trong đó có mối liên hệ thuộc phạm vi nhân học, vì con người được Phúc Âm hoá không phải là một hữu thể trừu tượng mà là một hữu thể lệ thuộc các vấn đề kinh tế và xã hội... Trên bình diện cứu chuộc đụng chạm tới chính những tình huống bất công cụ thể cần phải đấu tranh và những tình huống công bằng cụ thể cần phải được khôi phục. Trong đó còn có mối liên hệ nổi bật thuộc phạm vi Tin Mừng, tức là phạm vi Đức Ái: làm sao có thể cống bố điều răn mới mà không tìm cách thăng tiến con người một cách đích thực trong công lý và hoà bình. (Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, số 66)
2. Yêu Sách Từ Con Người Và Thế Giới Hôm Nay: Công đồng Vaticanô II khẳng định : “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ.” (GS No 1). Nói cách khác, Giáo Hội Công Giáo cũng sẽ phải lắng nghe những đòi hỏi của con người, của dân tộc, của xã hội mà mình dấn thân phục vụ. Khi chọn lựa đứng về phía người nghèo khổ, đau khổ, bất hạnh thì măc nhiên cũng cho họ được quyền đòi hỏi Giáo Hội và các môn đệ Đức Kitô phải bênh vực, phải lên tiếng và phải hướng dẫn họ theo ánh sáng Tin Mừng để đạt được công lý, bác ái và hoà bình ở hiện tại này. Giáo Hội có trách nhiệm phải lên tiếng thay cho họ.
Giáo Hội Công Giáo không thể đứng bên lề để quan sát thế giới  và những vận hành của nó nhưng phải hội nhập, là thành phần của nó. Cũng thế, từng Giáo Hội địa phương cũng không thể đứng bên lề xã hội mình đang chung sống mà phải hội nhập. Khi hội nhập như thế, người ta sẽ có những đòi hỏi, những yêu sách nhất là những vấn đề đụng chạm đến chân lý, tình thương và sự sống đòi Giáo Hội và môn đệ Đức Kitô phải trả lời. Giáo hội Công giáo phải là tiếng nói trung thực của công lý. Giáo Hội phải can đảm dấn thân bênh vực cho sự thật, cho sự sống, cho quyền con người.
3.        Yêu Sách Từ Giáo Hội đòi Hỏi Thế Giới: Với bối cảnh thế giới ở thời đại Toàn Cầu Hoá hiện nay, Giáo hội trong sứ mạng và trách nhiệm của mình có quyền lên tiếng để cống bố sứ điệp Tin Mừng của Đức Kitô. Cụ thể :
3.1. Tôn trọng Quyền tự do tôn giáo: Quyền tự do tôn giáo phải được nhìn nhận trong trật tự pháp lý và phải được phê chuẩn như một quyền dân sự. Chính phẩm giá của con người và chính bản chất của công cuộc tìm kiếm Thiên Chúa đòi phải để cho mọi người được tự do không bị một áp lực nào trong lãnh vực tôn giáo. Xã hội và nhà nước không đựơc cưỡng bách con người hành động ngược với lương tâm của mình hay không được ngăn cản con người hành động hợp với lương tâm của mình. (Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, số 421). Chính trong tự do tôn giáo có biểu lộ đặc tính của con người, nhờ tự do ấy con người có thể xếp đặt đời sống bản thân và xã hội của mình theo Thiên Chúa: dưới ánh sáng của Chúa, con người hiểu được trọn vẹn căn tính, ý nghĩa và cùng đích của mình. Phủ nhận hoặc giới hạn tự do tôn giáo một cách độc đoán có nghĩa là nuôi dưỡng một quan niệm hẹp hòi về con người, làm lu mờ vai trò công cộng của tôn giáo có nghĩa là tạo nên một xã hội bất công, vì không hợp với bản chất đích thực của con người; điều này có nghĩa là làm cho sự khẳng định một nền hòa bình chân chính và lâu bền của toàn thể nhân loại trở thành điều không thể thực hiện được. Tự do tôn giáo phải được hiểu không phải chỉ là không bị cưỡng bách, nhưng trước tiên như một khả năng xếp đặt các chọn lựa của mình theo chân lý. Có một mối liên hệ không thể tách rời giữa tự do và tôn trọng; lý do vì, ”luật luân lý bó buộc mọi người và mọi nhóm xã hội, khi thi hành các quyền của mình, phải để ý tới các quyền của người khác, cũng như tới những nghĩa vụ của mình đối với người khác và công ích của mọi người”. trong số các quyền và tự do cơ bản có căn cội trong phẩm giá con người, tự do tôn giáo có một qui chế đặc biệt. Khi tự do tôn giáo được nhìn nhận, thì phẩm giá con người được tôn trọng trong căn cội của nó và luân lý cũng như các định chế của các dân tộc được củng cố. Trái lại, khi tự do tôn giáo bị chối bỏ, khi toan tính ngăn cản việc tuyên xưng tôn giáo hoặc tín ngưỡng và cuộc sống phù hợp với tôn giáo, thì người ta xúc phạm đến phẩm giá con người, và đồng thời đe dọa công lý và hòa bình, là những điều dựa trên trật tự ngay thẳng của xã hội được xây dựng dưới ánh sáng của Sự Thật và Sự Thiện Tối Cao. (Xem ĐGH Bênêđictô XVI, Sứ điệp Ngày Thế Giới Hoà Bình 2011, số 3-6). Công đồng Vatiacanô II đã long trọng tái xác nhận rằng : “ Cộng đồng chính trị và Giáo hội độc lập với nhau và hoàn toàn tự trị trong địa hạt của mình.” (GS, số 76). Vì tôn trọng tự do tôn giáo, cộng đồng chính trị phải bảo đảm cho Giáo Hội có đủ không gian cần thiết để thi hành sứ mạng của mình. Giáo Hội có quyền được luật phát nhìn nhận bản sắc đúng của mình. Bởi đó Giáo Hội tìm cho được sự tự do phát biểu, tự do giảng dạy và loan báo Tin Mừng, tự do thờ phượng chung, tự do tổ chức và cai quản trong nội bộ của mình (Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, số 424, 426).
3.2. Xây dựng Tình liên đới trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị để kiến tạo công bằng, tôn trọng công ích : Môt trong những nhiệm vụ căn bản của những người tích cực tham gia vào các vấn đề kinh tế thế giới là làm sao thực hiện cho nhân loại một sự phát triển toàn diện trong tình liên đới, tức là phát huy điều tốt của mỗi người và của toàn thể con người (Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, số 373).
3.3. Hoà bình là kết quả của công lý và Bác ái : Hoà bình là một giá trị và là một nghĩa vụ của hết mọi người dựa trên trật tự hợp lý và luân lý của xã hội, trật tự này bắt nguồn từ chính Thiên Chúa, là nguồn sống đầu tiên, là sự thật căn bản và là sự thiện hảo tối cao. Hoà bình không phải chỉ là không có chiến tranh cũng không phải hạ thấp xuống tới mức chỉ là giữ cho các bên thù địch nhau cân bằng về quyền lực; mà đúng hơn hoà bình đựơc xây dựng trên việc hiểu đúng con người và đòi phải thiết lập đựơc một trật tự dựa trên nền tảng công lý và bác ái. Hoà bình là kết quả của công lý được hiểu là tôn trọng phẩm giá con người. Trao cho con người những gì là của mình. Bảo vệ và phát huy các quyền con người là điều kiện cần thiết để xây dựng một xã hội hoà bình và để phát triển toàn diện các cá nhân, các dân tộc và các quốc gia. Hoà bình đích thực là kết quả của tình yêu hơn là của công lý. Hoà bình tự chính bản thân là một hành động và là những thành quả chỉ xuất phát từ tình yêu. Hoà bình được xây dựng dần dần khi người ta theo đuổi một trật tự như Chúa muốn và hoà bình chỉ thăng hoa khi mọi người đều công nhận ai ai cũng có trách nhiệm xúc tiến hoà bình. Một lý tưởng hoà bình không thể nào có được nếu đời sống ấm no của con người chưa được bảo đảm và nếu người ta chưa được tự do và tin tưởng chia sẻ với nhau những sự phong phú của trí tuệ và tài năng của mình.
Giáo huấn của Giáo Hội về xã hội triển khai Lời Chúa là nguồn ánh sáng chân lý về sự sống con người cùng nhân phẩm và nhân quyền, về gia đình và cộng đồng xã hội, về các mối quan hệ xã hội cùng bang giao giữa các dân tộc.  Ban Công Lý Và Hoà Bình có trách nhiệm phổ biến giáo huấn đó nhằm soi đường dẫn lối cho mọi thành phần dân Chúa đưa những giá trị Tin Mừng, những giá trị nhân bản, vào trong đời sống văn hoá và xã hội, kinh tế tài chính và chính trị của cộng đồng nhân loại hôm nay (x. Thông điệp "Tình Yêu trong Chân Lý"). Đó là con đường cộng đồng dân Chúa thi hành sứ vụ Phúc Âm hoá những thực tại trần thế, hướng đến xác lập một nền nhân bản mới cùng một trật tự xã hội mới cho trong thế giới toàn cầu hoá hôm nay.(Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn, Lời chủ chăn 05/2011)
Thách đố thì nhiều, khó khăn thì phức tạp nhưng trong ánh sáng Đức Tin thì đó lại là con đường thập giá mới của Giáo Hội trên đường sứ vụ. Công Lý và Hoà bình là chọn lựa đúng đắn theo tác động của Chúa Thánh Thần ở thời đại hôm nay để Giáo Hội can đảm dấn thân thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng Cứu Độ của Đức Kitô Phục Sinh. Có thách đố, có khó khăn nhưng lại làm nảy sinh cơ hội để Giáo Hội thu hoạch một vụ mùa bội thu.

Lm. G.M. Lê Quốc Thăng